Trắc bách diệp được trồng khắp nơi ở đất nước ta để làm cảnh và làm thuốc. Cây trắc bách diệp cho ta 2 vị thuốc: trắc bá diệp (lá cành phơi hay sấy khô) và bá tử nhân.
Thành phần hóa học: trắc bá diệp có tinh dầu (fenchon, camphor, borneol acetat, terpinol), flavonoid (myricetin, hinokiflavon, amentoflavon, quercitin) và lipid (exter của acid: juniperic, sabinic, pimatic, isopimaric…) …
Theo Đông y, trắc bá diệp vị đắng chát, tính hơi hàn; vào kinh tâm, can và đại tràng. Tác dụng lương huyết, cầm m.áu, tiêu độc; còn có tác dụng chữa đàm thấp. Trắc bá diệp thường dùng dưới dạng sao cháy tổn tính, trong các phương thuốc về huyết. Liều dùng: 6 – 12g. Dùng sống có tác dụng lương huyết, sao đen có tác dụng cầm m.áu (chỉ huyết). Xin giới thiệu một số bài thuốc có trắc bá diệp.
Không chỉ làm cảnh đẹp, trắc bách diệp còn là vị thuốc Đông y trị nhiều bệnh, đặc biệt làm thuốc trị chứng xuất huyết do nhiệt.
Lương huyết, cầm m.áu
Bài 1 – Bột trắc bách: trắc bá diệp (chế giấm) 60g, nghiền thành bột. Mỗi lần uống 8 – 12g, ngày uống 2 – 3 lần, chiêu với nước đun sôi còn ấm. Dùng khi huyết nhiệt mạnh gây c.hảy m.áu cam, băng huyết, tiểu tiện ra huyết.
Bài 2: trắc bá diệp (thán) 20g, bồ hoàng (thán) 16g, bạch thược (tẩm rượu sao) 63g. Tất cả nghiền thành bột mịn. Mỗi lần uống 8g, ngày uống 3 lần, chiêu với nước đun sôi còn ấm. Trị người nhiệt băng huyết.
Bài 3 – Hoàn Tứ sinh: sinh địa 20g, trắc bá diệp sống 12g, lá ngải sống 12g, lá bạc hà sống 12g. Tất cả giã nát làm hoàn hoặc sắc nước uống. Trị người nhiệt c.hảy m.áu cam.
Bài 4 – Thang bá diệp: trắc bá diệp (thán) 12g, gừng khô (thán) 6g, lá ngải để lâu 6g. Sắc uống. Trị nôn ra m.áu lâu không khỏi.
Bài 5: trắc bá diệp 12g, hạn liên thảo 20g, sinh địa 16g, hòe hoa 16g, huyền sâm 12g, địa cốt bì 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa c.hảy m.áu do cơ địa dị ứng gây rối loạn thành mạch.
Trị đàm thấp chỉ đới: khi bị thấp nhiệt bạch đới. Dùng Hoàn trắc bá: trắc bá diệp 12g, bạch truật 12g, bạch thược 12g, bạch chỉ 12g, hương phụ 8g, hoàng liên 4g, hoàng bá 8g. Tất cả nghiền thành bột, dùng hồ gạo làm hoàn hoặc sắc nước uống. Trị thấp nhiệt bạch đới.
Chữa viêm thận cấp tính, đặc biệt với viêm bể thận: trắc bá diệp 63g, biển súc 63g, cam thảo 4g, đại táo 4 quả. Các vị sắc với 1.500 ml nước còn 500 ml, chia uống 3 lần trong ngày.
Chữa viêm bàng quang cấp: trắc bá diệp 16g, hoàng bá 16g, hạn liên thảo 16g, tỳ giải 16g, mộc thông 16g, hoàng cầm 12g, liên kiều 12g, hòe hoa 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Hoa mào gà, vị thuốc trị nhiều chứng bệnh
Hoa mào gà là loài hoa quen thuôc đươc trông tại nhiêu gia đình dùng đê làm cảnh. Trong Đông y, Cây hoa mào gà sử dụng hạt, bông hay mầm non làm dược liệu, vị thuốc này có nhiều tác dụng quý như điều trị đi cầu ra m.áu, thổ huyết, khi hư, di tinh, c.hảy m.áu cam…
Mào gà đỏ có nguồn gốc ở vùng Đông Ấn, được nhập trồng làm cảnh và làm thuốc ở nhiều nơi. Người ta dùng cụm hoa, hạt và lá để làm thuốc với tên gọi là kê quan hoa (Flos Celociase Cristatae).
Hoa mào gà còn có tên gọi kê đầu, kê cốt tử hoa, mồng gà. Tên khoa học Celosia cristata L., thuộc họ rau dền (Amaranthaceae). Thân nhẵn, cao 30-70cm. Lá mọc lệch có cuống, lá có các màu đỏ sẫm, xanh, xanh vàng. Hoa mọc tập trung ở đỉnh như mào con gà. Cụm hoa được thu hái vào cuối hè đầu thu, khi hoa đang nở rộ, đem phơi khô, bảo quản nơi khô ráo để làm thuốc.
Hoa mào gà có chứa chất betamin, một chất có nitrogen chứa anthocyanin. Trong hạt có chất dầu béo.
Theo Đông y, kê quan hoa có vị ngọt, tính mát, tác dụng tiêu viêm , cầm m.áu. Sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh viết: “Kê quan hoa tính mát, khí thuần hòa, trị được chứng trường phong hạ huyết (đi cầu ra m.áu), chứng trĩ, mạch lương, lỵ và băng huyết”.
Ngày nay, người ta dùng hoa mào gà (cả hạt) sắc uống để cầm m.áu trong các trường hợp ra m.áu như: lỵ ra m.áu, trĩ ra m.áu, thổ huyết, băng huyết, rong kinh, tiểu ra m.áu. Ngày dùng 10-16g khô hoặc 30-45g tươi.
Nước sắc hoa mào gà được dùng để rửa mắt đỏ đau, giúp hạ sốt ở t.rẻ e.m. Dùng chữa kiết lỵ, xích bạch đới, viêm đường tiết niệu.
Người Ấn Độ dùng hạt mào gà trị ho, lỵ; đắp chữa mụn nhọt có mủ.
Một số bài thuốc dùng hoa mào gà đỏ:
– Chữa chứng thổ huyết: Hoa mào gà 30g, gạo nếp 50g. Ngâm hoa mào gà trong nước nửa ngày, sau đó đun sôi khoảng 20 phút rồi lọc lấy nước. Dùng nước này nấu với gạo nếp thành cháo loãng. Chia làm 2 phần ăn trong ngày với ít đường trong lúc đói bụng.
– Chữa chứng dạ dày, ruột hoặc tử cung bị xuất huyết: Hoa mào gà đỏ 10-16g khô (30-45g tươi), sấy giòn rồi tán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1-2g với nước cháo loãng.
– Chữa viêm â.m đ.ạo, khí hư bạch đới: Hoa mào gà tươi 500g, nước cốt củ sen 500ml. Hoa mào gà rửa sạch, cho vào nồi nấu với lượng nước thích hợp. sau 20 phút chắt lấy nước 1 lần rồi cho vào nồi hầm tiếp. Chắt đủ 3 lần nước thì gộp chung lại, nấu lửa nhỏ cho đến khi cô đặc. Đổ nước cốt củ sen vào, nấu cho tới khi thấy nước thuốc sền sệt thì bắc nồi xuống. Thêm 500g đường cát trắng vào trộn đều. Dàn mỏng trên đĩa lớn, phơi khô, tán bột, cho vào hũ sạch, đậy kín và dùng dần.
Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10-12g với nước ấm vào lúc đói bụng.
– Chữa đại tiện ra m.áu: Hoa mào gà đỏ rửa sạch, sao cháy, tán thành bột mịn. Dùng uống mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần 6-9 g.
– Chữa ho ra m.áu: Hoa mào gà trắng đốt tồn tính, mỗi ngày uống với 15-20g với nước cơm, hoặc dùng 15g hoa mào gà sắc uống.
– Chữa bế kinh: Hoa mào gà tươi 24g, thịt heo nạc 100g. Hai thứ hầm chín mềm. Chia ăn 2 lần trong ngày.
– Chữa k.inh n.guyệt không đều: Hoa mào gà đỏ và trắng mỗi loại 10-12g. Nấu với 300 ml nước, sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày.
– Chữa thai lậu (phụ nữ có thai không đau bụng, thỉnh thoảng ra m.áu): Hoa mào gà trắng sao cháy, long nhãn 10g. Nấu với 100ml nước và 100ml rượu trắng, sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày.
– Chữa rong huyết, rong kinh, băng huyết: Hoa mào gà đỏ và trắc bá diệp, lượng bằng nhau. Hai thứ rửa sạch, phơi khô, sao tồn tính. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.
-Món ăn Hoa ngọc kê: Nguyên liệu: Hoa mào gà đỏ còn tươi 50-100g, một con gà mái.
Cách làm: Hoa rửa sạch. Gà làm sạch, nấu chín đến phân nửa, sau đó cho hoa mào gà vào nấu tiếp cho chín nhừ, nêm gia vị vừa ăn. Ăn vào lúc đói bụng. Đây là món có tác dụng bổ dưỡng, tăng lực và bổ khí huyết. Dùng cho trường hợp lao lực và mắc các chứng xuất huyết.