T.uổi mắc bệnh thường khá trẻ, thậm chí có đến 10% người dưới 18 t.uổi đã được ghi nhận.
Việt Nam nằm trong số các quốc gia có tỷ lệ mắc ung thư vòm khá cao.
Đây là một trong những loại ung thư có tiến triển nhanh nhưng cũng đáp ứng tốt với xạ trị và hóa chất. Ảnh: Reddit.
Bác sĩ Hà Hải Nam, Phó trưởng khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K Trung ương, cho biết trong một buổi sáng, hai bệnh nhân tới khám vì dấu hiệu ù tai, ngạt mũi. Qua thăm khám và nội soi tai mũi họng, bác sĩ nghi ngờ đây là ca bệnh u ác tính của vòm mũi họng.
Điều may mắn, bệnh nhân chưa có dấu hiệu của hạch di căn nên bệnh vẫn còn ở giai đoạn có thể điều trị đạt kết quả tốt.
Theo bác sĩ Nam, dù không phải là căn bệnh quá phổ biến, ung thư vòm vẫn đứng thứ 6 trong số các ung thư hay gặp ở nam giới và đứng thứ 9 trong số các ung thư hay gặp ở nữ giới tại nước ta.
Ung thư vòm là gì?
Ung thư vòm là bệnh lý ác tính, phát sinh từ các tế bào ở vùng vòm – phần cao nhất của hầu họng, ngay phía sau mũi, còn gọi là họng mũi (hầu họng có 3 phần bao gồm họng mũi, họng miệng, họng thanh quản hay hạ họng).
Bác sĩ Nam cho hay ung thư vòm mũi họng thường gặp chủ yếu là loại ung thư biểu mô không biệt hóa. Đây là một trong những loại tiến triển nhanh nhưng cũng đáp ứng tốt với xạ trị và hóa chất. Bệnh hay gặp ở nam giới, tỷ lệ gặp ở nam gấp 2-3 lần ở nữ.
T.uổi mắc bệnh thường khá trẻ, thậm chí có đến 10% người dưới 18 t.uổi đã được ghi nhận.
Việt Nam nằm trong số các quốc gia có tỷ lệ mắc ung thư vòm khá cao.
Phó trưởng khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K Trung ương, chỉ ra nguyên nhân và các yếu tố làm tăng nguy cơ của bệnh như:
– Virus Epstein-Barr (EBV): Nhiễm EBV là nguyên nhân gây bệnh hàng đầu.
– Yếu tố môi trường: Thức ăn giàu chất nitrosamine ( thịt muối, thịt hun khói…) dễ bay hơi là tác nhân gây ung thư biểu mô mũi, xoang trên thực nghiệm.
– Bất thường nhiễm sắc thể: Những tổn thương trên các nhiễm sắc thể 3p, 9p, 11q, 13a, 14q và 16q ảnh hưởng tới vùng chứa các gene ức chế hình thành u. Chúng làm chuyển dạng các tế bào bình thường của biểu mô vùng vòm mũi họng thành tổn thương t.iền xâm lấn rồi phát triển thành tổn thương ung thư xâm lấn.
– Rượu và t.huốc l.á:
T.huốc l.á: Hút t.huốc l.á (chủ động) hay hít phải khói thuốc (thụ động) cũng đưa một lượng hóa chất gây ung thư xâm nhập vào cơ thể. Nơi tiếp xúc trực tiếp với t.huốc l.á chính là vùng hầu họng (trong đó có vùng vòm), từ đó dẫn đến các biến đổi để hình thành ung thư.Rượu: Nếu t.huốc l.á làm tăng nguy cơ ung thư vòm họng, rượu sẽ khiến cho bệnh nặng hơn. Nghiên cứu cho thấy uống rượu trong khi hút thuốc sẽ tăng đáng kể nguy cơ ung thư vùng đầu, cổ so với việc chỉ hút thuốc hoặc chỉ uống rượu. Nguyên nhân nằm ở việc rượu là “chất dẫn” để đưa các hóa chất độc trong t.huốc l.á xâm nhập vào tế bào dễ dàng hơn. Hơn nữa, rượu làm chậm khả năng p.hân h.ủy và loại bỏ các hóa chất độc hại của cơ thể. Hai điều này tạo thành “combo” tác động khiến tế bào ung thư hình thành và phát triển.
– Dinh dưỡng: Chế độ ăn ít vitamin A, E có thể làm tăng nguy cơ ung thư hầu họng, trong đó có ung thư vòm họng.
– Nghề nghiệp: Một số hóa chất độc hại như amiăng, bụi gỗ, khói sơn… làm tăng nguy cơ phát triển thành khối u ác tính.
Các triệu chứng của ung thư vòm họng
“Các dấu hiệu sớm của bệnh thường nghèo nàn, dễ bỏ qua vì có thể nhầm với triệu chứng của bệnh viêm nhiễm vùng tai mũi họng. Các triệu chứng lúc đầu thường xuất hiện ở một bên hay một vị trí, sau đó tăng dần”, bác sĩ Hải Nam cho hay.
Các dấu hiệu sớm của bệnh thường nghèo nàn, dễ bỏ qua vì có thể nhầm với triệu chứng của bệnh viêm nhiễm vùng tai mũi họng. Ảnh: Kobieta.
Các triệu chứng có thể gặp bao gồm:
– Nổi hạch cổ: Vị trí hay gặp là hạch cổ góc hàm hoặc xuất hiện nhiều hạch ở một hay 2 bên cổ.
– Triệu chứng tai: Bệnh nhân thường biểu hiện một bên như nghe kém, ù tai, có thể gặp đau sâu trong tai, chảy dịch ở tai.
– Triệu chứng ở mũi: Bạn có thể bị ngạt tắc mũi một hoặc 2 bên. Thậm chí, người bệnh c.hảy m.áu mũi dai dẳng, điều trị nội khoa không đỡ.
– Triệu chứng thần kinh: Người bệnh nhìn đôi và lác trong, đau nửa mặt hoặc đau họng, đau đầu hoặc đau nửa đầu do u xâm lấn nội sọ.
– Triệu chứng ở mắt: Khối u xâm lấn ổ mắt hiếm gặp, chủ yếu gặp lồi mắt hoặc liệt vận nhãn (lác), nhìn mờ.
– Triệu chứng gợi ý di căn xa: Khoảng 10% trường hợp có di căn xa tại thời điểm chẩn đoán ban đầu, thường gặp nhất là di căn xương gây đau xương hoặc gãy xương bệnh lý. Ngoài ra, bệnh nhân có thể gặp di căn gan hoặc phổi nhưng ít gặp.
Theo bác sĩ Nam, để phát hiện ung thư vòm họng, người bệnh nên kiểm tra bằng cách soi tai mũi họng. Bác sĩ quan sát rõ tổn thương, đ.ánh giá vị trí tổn thương, hình dạng, kích thước, mức độ lan rộng của bệnh và có thể sinh thiết giúp chẩn đoán khẳng định. Ngoài ra, các bác sĩ sẽ khám hạch cổ và hạch ngoại vi khác cho người bệnh, nhằm phát hiện ra tổn thương có giá trị để đ.ánh giá giai đoạn bệnh ung thư vòm.
“Hiệu quả điều trị căn bệnh này rất tốt, đặc biệt ở giai đoạn sớm. Bệnh nhân có khả năng khỏi hoàn toàn. Tuy vậy, sự chủ quan lơ là đôi khi sẽ khiến chúng ta trả giá rất đắt”, vị chuyên gia này nói.
Bác sĩ nói nhóm người này có nguy cơ cao mắc ung thư thực quản
Những người thường xuyên uống rượu, hút thuốc, ăn đồ cay nóng, ăn các thực phẩm chứa nitrit và nitrat như dưa muối, cà muối, thịt muối,… sẽ làm tăng nguy cơ mắc ung thư thực quản.
TS.BS Lê Huy Lưu, Phụ trách điều hành khoa ngoại tiêu hóa Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TP.HCM) cho biết, ung thư thực quản là khối u ác tính xuất phát từ các tế bào biểu mô của thực quản. Khi phát triển khối u sẽ xâm nhập vào sâu trong thành thực quản. Theo thời gian, khối u to lên và có thể xâm lấn vào các cấu trúc xung quanh, di căn hạch, di căn theo đường mạch m.áu, mạch bạch huyết tới các cơ quan khác: phổi, gan, xương…
Ung thư thực quản là loại ung thư phổ biến đứng hàng thứ 8 trên thế giới và khi phát hiện được trên lâm sàng, u thường đã ở giai đoạn tiến triển.
Cũng như các bệnh ung thư khác, cho đến nay các nguyên nhân gây ung thư thực quản vẫn chưa được xác định chính xác. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố nguy cơ gây bệnh ung thư thực quản.
Những nhóm có nguy cơ mắc bệnh cao
Theo bác sĩ Lưu, những người thường xuyên uống rượu có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư thực quản, đặc biệt, nguy cơ càng tăng cao ở những người vừa uống rượu vừa hút thuốc.
Những người thường xuyên uống rượu có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư thực quản,. Ảnh SHUTTERSTOCK
Bên cạnh đó, trong bữa ăn thường xuyên có các thực phẩm chứa nitrit và nitrat như dưa muối, cà muối, thịt muối,…; hoặc chế độ ăn nhiều chất béo, ít chất xơ, rau xanh, hoa quả hoặc thói quen ăn đồ cay, nóng, đồ chiên rán nhiều dầu mỡ, đồ nướng làm tổn thương ở niêm mạc thực quản.
Ngoài ra, các nguy cơ gia tăng ung thư thực quản còn có bệnh nhân bị các tổn thương ở thực quản. Như viêm thực quản do trào ngược dạ dày – thực quản, sẹo bỏng thực quản, bệnh co thắt tâm vị,…; có người thân mắc ung thư thực quản; thừa cân, béo phì.
Ung thư thực quản thường gặp ở độ t.uổi 55 – 80, nam giới có tỷ lệ mắc bệnh nhiều hơn nữ giới (chiếm 80%).
Triệu chứng ở giai đoạn tiến triển
Ung thư thực quản giai đoạn sớm không gây ra triệu chứng. Khi ung thư tiến triển, các triệu chứng phổ biến nhất là:
Nuốt nghẹn: Cảm giác thức ăn bị vướng trong thực quản và có thể bị nôn trở ra. Nuốt nghẹn tăng dần từ đặc tới thức ăn lỏng. Thường khi có nuốt nghẹn thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Nôn xuất hiện khi biểu hiện nuốt nghẹn đã rõ rệt. Nôn có thể xảy ra trong bữa ăn, ngay sau khi ăn. Chất nôn là thức ăn vừa mới ăn vào không có lẫn dịch vị, có thể có ít m.áu trong chất nôn.
Khó thở, ho, sặc, khàn tiếng là các triệu chứng cho thấy khối u đã xâm lấn thực quản. Ảnh SHUTTERSTOCK
Tăng tiết nước bọt: Khi bệnh nhân nuốt nghẹn nhiều thì nước bọt hầu như không xuống được dạ dày nên bệnh nhân luôn phải nhổ nước bọt. Ngoài ra sụt cân, gầy sút, suy kiệt, thiếu m.áu cũng là triệu chứng phổ biến của bệnh.
Các triệu chứng khác chứng tỏ khối u đã xâm lấn ra ngoài thực quản như khó thở, ho, sặc, khàn tiếng; Giọng nói khàn kèm ho mà không hết trong vòng 2 tuần; Đau khi nuốt, cảm giác nặng, tức sau xương ức khi nuốt, đau ngực hoặc lưng, đau bụng vùng thượng vị.
Điều trị ung thư thực quản được thực hiện dựa trên giai đoạn và vị trí ung thư, cùng với thể trạng chung của từng người, là sự phối hợp của xạ trị, hóa trị và phẫu thuật. Trong đó, phẫu thuật đóng vai trò quyết định.