Dù thế nào thì vẫn có thể hi vọng rằng hệ thống y tế của nước ta sẽ không bị quá tải đột ngột và vỡ trận như Vũ Hán (Trung Quốc) hoặc Ý nếu tất cả mọi người cùng đồng lòng thực hiện các biện pháp chống dịch.
LTS: Khi dịch bệnh Covid-19 đã lan tràn khắp thế giới, cùng với các nhận xét cho rằng bệnh gây ra do chủng virus mới này có nhiều biểu hiện triệu chứng giống với cúm mùa, một câu hỏi tiềm ẩn niềm hy vọng lớn được đặt ra là liệu con virus này có bị suy yếu và g.iết c.hết vì nắng hè, tương tự các loài virus đã được biết đến hay không?
Trân trọng giới thiệu bài phân tích của TS Nguyễn Quốc Thục Phương, Chuyên viên nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch tại Trung tâm Y tế Đại học Rochester, bang New York, Mỹ.
Có một hiện tượng đã được công nhận từ 2.500 năm trước bởi Hippocrates và Thucydides nhưng đến nay vẫn chưa được chú ý nhiều lắm: Nhiều loại bệnh truyền nhiễm có tính theo mùa (phổ biến hơn vào một mùa cụ thể). Tuy nhiên, câu giải thích cho hiện tượng này đột nhiên trở nên cấp bách hơn khi toàn thế giới đang đối mặt với đại dịch COVID-19.
SARS-CoV-2, loại virus gây bệnh COVID-19, tính đến hết 22/3/2020 đã lây nhiễm cho hơn 304.000 người trên toàn cầu (số liệu thống kê được), hơn 12.000 người c.hết. Một số người lạc quan hy vọng nó sẽ giống cúm và giảm dần khi mùa hè đến ở vùng ôn đới của Bắc bán cầu, nơi hiện có khoảng một nửa dân số thế giới sinh sống. Tổng thống Mỹ Donald Trump đã nhiều lần bày tỏ hy vọng đó. Tại Việt Nam, những ca bệnh được phát hiện đến nay chưa lây lan thành cụm dịch lớn (dù có thể nguyên nhân chủ yếu là do những biện pháp cách ly tức thời hữu hiệu của Việt Nam).
Chúng ta đã biết được những gì về COVID-19 và những virus gây dịch bệnh tương tự? Liệu virus SARS-CoV-2 có giảm đi khi hè đến? Chúng có biến mất hoàn toàn hay không?
Bệnh dịch do virus rất đa dạng, bùng phát theo mùa hoặc tồn tại quanh năm
Trong hình bên dưới, dựa trên hồ sơ sức khỏe của liên bang và tiểu bang Hoa Kỳ, mỗi bong bóng đại diện cho tỷ lệ phần trăm các trường hợp hàng năm xảy ra trong mỗi tháng. (Dữ liệu đã cũ vì nhiều bệnh đã biến mất sau khi tiêm chủng được thực hiện rộng rãi.)
Nhiều giả thuyết đã được đưa ra để giải thích cho tính mùa vụ của các dịch bệnh này. Ví dụ như mối quan hệ giữa mầm bệnh, môi trường và hoạt động của con người. Chẳng hạn, cúm thường hoành hành vào mùa đông vì các yếu tố như độ ẩm, nhiệt độ môi trường thuận lợi.
Martinez cũng đang nghiên cứu một lý thuyết khác: Hệ thống miễn dịch của con người có thể thay đổi theo mùa, trở nên đề kháng tốt hơn hoặc dễ bị n.hiễm t.rùng tuỳ vào mức độ ánh sáng mặt trời cơ thể chúng ta nhận được. Hiểu nôm na rằng cơ thể có sức đề kháng yếu hơn vào mùa lạnh do thiếu nắng.
Nhiệt độ và độ ẩm không khí được cho là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự lây nhiễm theo mùa của virus
Có hai nhóm virus chính:
Một nhóm (non-enveloped virus) có vật liệu di truyền được đóng gói bên trong lớp vỏ protein (gọi là capsid).
Nhóm khác (enveloped virus như hình minh họa) có lớp vỏ ngoài được làm từ chất béo do chúng sử dụng lớp màng tế bào của vật chủ khi thoát ra.
Vòng đời của virus có vỏ ngoài (Hình vẽ có chỉnh sửa từ sách Nấu ăn thông minh – Tác giả Nguyễn Quốc Thục Phương)
Neal Nathanson, một nhà virus học danh dự tại Đại học Y khoa Perelman thuộc Đại học Pennsylvania, cho rằng khả năng tồn tại của virus bên ngoài cơ thể con người (ví dụ trong các giọt b.ắn) là rất quan trọng.
Virus có vỏ ngoài thường mỏng manh hơn và dễ bị tổn thương trước các điều kiện bất lợi, bao gồm, nhiệt mùa hè và độ ẩm không khí. Cúm và các coronavirus, bao gồm SARS-CoV-2 đều là virus có vỏ ngoài.
Tác giả bài viết – TS Nguyễn Quốc Thục Phương, chuyên viên nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch tại ĐH Rochester, New York, Mỹ
Một nghiên cứu năm 2018 trong tạp chí Science Report cho kết quả giống với nhận định của Neal Nathason. Nhà virus học Sandeep Ramalingam tại Đại học Edinburgh và các đồng nghiệp đã phân tích đặc tính theo mùa của 9 loại virus. Theo ông Ramamam, virus có vỏ ngoài thường có tính theo mùa rất rõ ràng.
Ví dụ, RSV và cúm đạt đỉnh dịch trong những tháng mùa đông. Cả hai đều chỉ lây lan mạnh trong khoảng 4 tháng lạnh mỗi năm.
Trong khi đó, rhinovirus (virus phổ biến nhất gây cảm lạnh thông thường bên cạnh các chủng coronavirus), thuộc nhóm không có vỏ ngoài. Sự lây lan của chúng không phụ thuộc vào thời tiết lạnh và đạt cực đại khi t.rẻ e.m trở lại trường sau kỳ nghỉ hè và mùa xuân.
Độ ẩm không khí (hiểu đơn giản là lượng hơi nước có trong không khí) cũng được cho là ảnh hưởng mạnh đến sự tồn tại và lây nhiễm bệnh của các virus có vỏ ngoài.
Độ ẩm tuyệt đối giảm mạnh vào mùa đông, vì không khí lạnh giữ ít hơi nước hơn mùa hè. Nghĩa là vào mùa đông, khi không khí khô hơn thì virus hoạt động mạnh hơn.
Nắng nóng mùa hè có g.iết được virus gây bệnh COVID-19 như các virus theo mùa khác không?
SARS-CoV-2 là virus có vỏ ngoài, nên liệu chúng có sẽ c.hết đi nhanh hơn vào mùa xuân và mùa hè, khi trong không khí có nhiều hơi nước hơn (độ ẩm tuyệt đối và tương đối tăng lên) hay không?
Hai loại virus gần với SARS-CoV-2 nhất là SARS và virus gây hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS), không đưa đủ manh mối cho chúng ta. SARS xuất hiện vào cuối năm 2002 và bị loại trừ hoàn toàn vào mùa hè năm 2003 thông qua các nỗ lực ngăn chặn mạnh mẽ. MERS thỉnh thoảng chuyển từ lạc đà sang người và đã gây ra dịch bệnh trong bệnh viện, nhưng không bao giờ lây truyền từ người sang người như COVID-19. Cả hai loại đều không lưu hành đủ lâu và trên quy mô đủ rộng để ta có thể theo dõi đặc tính theo mùa của chúng.
Bốn loại coronavirus khác (thường gây cảm lạnh và các bệnh về đường hô hấp ở người) tiết lộ cho ta biết nhiều hơn, dù trình tự gien của chúng ít giống với SARS-CoV-2 hơn. Trong một bài báo năm 2010, nhà nghiên cứu sinh học phân tử Kate Templeton tại Đại học Edinburgh đã phân tích 11.661 mẫu thử từ hệ hô hấp được thu thập từ năm 2006 đến 2009.
Kết luận được đưa ra là bốn loại coronavirus này có đặc tính theo mùa như bệnh cúm.
Một nghiên cứu (chưa qua kiểm duyệt của chuyên gia) được công bố trong tuần này kết luận rằng việc lây nhiễm COVID-19 liên tục trong cộng đồng dường như chỉ xảy ra ở các dải vĩ tuyến cụ thể trên toàn cầu có nhiệt độ từ 5C đến 11C và độ ẩm tương đối 47% đến 70%.
Như vậy, hiện vẫn chưa có chứng cớ chắc chắn về việc COVID-19 có đặc tính theo mùa như một số loại virus gây bệnh dịch ở người khác hay không.
Dù giả sử COVID-19 có đặc tính lan truyền theo mùa, thì theo nhận định của các chuyên gia, khả năng COVID-19 biến mất hoàn toàn khi mùa hè đến ở Bắc bán cầu là rất thấp. Bởi vì cần có sự cân bằng giữa các yếu tố môi trường và mức độ miễn dịch của cộng đồng.
Các coronavirus khác đã có từ lâu, vì vậy một bộ phận dân số đã có khả năng miễn dịch, giúp hạn chế phát tán các virus này trong điều kiện không thuận lợi. Thế nhưng điều này khó có thể áp dụng cho COVID-19.
Mặc dù sự lây lan COVID-19 có thể giảm nhiều vào mùa hè, nhưng nếu có đủ người nhạy cảm trong cộng đồng, virus này vẫn có thể truyền từ người sang người và lưu hành trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, dù COVID-19 có thể sẽ không hoàn toàn biến mất, nhưng việc lây lan theo mùa của COVID-19 (nếu có), vẫn có thể mang lại hi vọng rằng hệ thống y tế của nước ta sẽ không bị quá tải đột ngột và vỡ trận như Vũ Hán (Trung Quốc) hoặc Ý nếu tất cả mọi người cùng đồng lòng thực hiện các biện pháp chống dịch.
Độ ẩm không khí là gì?
Có hai khái niệm về độ ẩm không khí thường được sử dụng:
Độ ẩm tuyệt đối (absolute humidity) là hàm lượng hơi nước tính trong một đơn vị thể tích không khí (ví dụ gam trên mét khối, g/m3). Độ ẩm tuyệt đối thay đổi khi áp suất không khí thay đổi, do đó thường được dùng trong hoá học kỹ thuật và ít thông dụng hơn trong cuộc sống hàng ngày.
Độ ẩm tương đối (Relative Humidity hay RH) là chỉ số cho biết lượng hơi nước trong không khí ở một nhiệt độ xác định so với lượng hơi nước không khí có thể chứa tối đa ở cùng nhiệt độ đó, thể hiện theo dạng (%). Nói đơn giản hơn, khi độ ẩm tương đối đạt 100% (hơi nước bão hoà), lượng hơi nước trong không khí đã đạt đến mức tối đa có thể tại nhiệt độ đó. Nếu tiếp tục thêm hơi nước vào, sẽ có hiện tượng hơi nước ngưng tụ và biến đổi thành giọt hơi nước to hơn, sương mù hoặc mây. Độ ẩm tương đối thường được dùng trong dự báo thời tiết.
Trong một bài báo năm 2010 trên PLOS Biology, Shaman và nhà dịch tễ học Marc Lipsitch của Trường Y tế Công cộng Harvard TH Chan báo cáo: Việc giảm độ ẩm tuyệt đối giải thích rõ hơn sự khởi phát của dịch cúm ở Hoa Kỳ so với nhiệt độ hoặc độ ẩm tương đối.
* Bài viết lược dịch từ bài báo được trích dẫn và có bổ sung thêm ý kiến của tác giả.
Tài liệu tham khảo:
https://www.sciencemag.org/news/2020/03/why-do-dozens-diseases-wax-and-wane-seasons-and-will-covid-19
Độ ẩm không khí là gì? Nếu nói độ ẩm 100% nó có nghĩa là không khí đã trở thành nước hay không?
Chuyện kể từ phòng thí nghiệm nghiên cứu virus cúm: Những đặc tính “kỳ lạ” của “con cúm”
Nếu mỗi người dân đều biết về bệnh dịch và là những quan sát viên tích cực thì những cụm dịch mới tại Việt Nam, nếu có, sẽ sớm được phát hiện và loại bỏ.
Tác giả bài viết – TS Nguyễn Quốc Thục Phương, chuyên viên nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch tại ĐH Rochester, New York, Mỹ
Ở Việt Nam, “cảm” và “cúm” thường được nhắc đến cùng nhau trong cụm từ “cảm cúm” khi ai đó có các triệu chứng sốt, ho, sổ mũi. Nhưng ít người biết được rằng thật ra “cảm” và “cúm” là hai nhóm bệnh gây ra, do hai họ virus hoàn toàn khác nhau. “Cảm” thường do các virus thuộc họ Coronaviridae gây ra, trong khi cúm gây ra do các virus influenza thuộc họ Orthomyxoviridae.
Thậm chí, có lẽ rất nhiều người, nhất là ở miền Nam Việt Nam, chỉ biết về bệnh cảm chứ chưa từng chứng kiến ai bị bệnh cúm.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gây ra do một chủng virus Corona lạ bắt nguồn từ Vũ Hán, Trung Quốc đang gây nhiều hoảng sợ trong cộng đồng, dịch cúm cũng được nhắc đến như một so sánh tương đương hoặc nghiêm trọng hơn về quy mô và mức độ thiệt hại chúng gây ra hàng năm.
Một bệnh nhân từng mắc bệnh cúm và cũng là y tá trong Trung tâm nghiên cứu về vaccine cúm tại Đại học Rochester, New York, Mỹ kể: “Bạn có thể biết ngay một người bị bệnh cúm hay chỉ bị các loại cảm lạnh khác, bởi vì bạn gần như không thể bước ra khỏi giường khi bị cúm. Ngay cả người bình thường khỏe mạnh, có thể sống một mình, nếu không chăm sóc điều trị, vẫn có thể t.ử v.ong khi mắc bệnh cúm. Do vậy, việc nghỉ ngơi chăm sóc sức khỏe hoặc uống thuốc trong giai đoạn đầu mắc bệnh là rất quan trọng.”
Cúm được xem là bệnh dịch mùa đông hàng năm tại Bắc bán cầu (Mỹ) và Nam bán cầu (Úc)
Hàng năm, dịch cúm thường bùng phát vào mùa đông (khoảng tháng 11 đến tháng 5 tại Mỹ hoặc tháng 6 đến tháng 11 tại Úc), và hạ nhiệt vào mùa hè (Xem hình).
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thường có cuộc họp hàng năm để dự đoán chủng cúm sẽ hoành hành tại Bắc bán cầu và Nam bán cầu khoảng 6 tháng trước mùa dịch ở mỗi nơi. Trong cuộc họp này, các chuyên gia sẽ chọn chủng cúm cho vaccine mùa cúm đó. Việc sản xuất vaccine sẽ được tiến hành ráo riết trong 4-5 tháng sau cuộc họp và việc tiêm chủng bắt đầu được thực hiện khoảng 1 tháng trước khi vào mùa dịch.
Ở các quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, dịch cúm có thể được phát hiện quanh năm ở những trường hợp riêng lẻ hoặc cụm bệnh nhỏ nhưng thường không bùng phát lên thành dịch bệnh lớn như ở các nước ôn đới.
Hiện nay chủ yếu có 4 chủng cúm mùa đang lưu hành trên thế giới, 2 chủng thuộc nhóm A gồm H1N1 và H3N2, 2 chủng thuộc nhóm B gồm dòng Victoria và dòng Yamagata. Tiêm chủng vẫn được xem là biện pháp phòng ngừa bệnh cúm mùa hàng năm hiệu quả nhất. Vaccine cúm mùa hàng năm thường bao gồm 2 chủng thuộc nhóm A và một hoặc cả hai chủng nhóm B.
Cần lưu ý tiêm chủng cúm mùa không có nghĩa là sẽ không bị mắc bệnh, nhưng các triệu chứng bệnh thường nhẹ hơn. Vì virus cúm thường xuyên có những biến đổi gen khi lưu hành trong cộng đồng người, tạo ra các chủng virus cúm khác với chủng được dự đoán có trong vaccine. Vì vậy, hiệu quả bảo vệ của vaccine cúm mùa thay đổi mỗi năm.
Hiệu quả bảo vệ cao hơn khi dự đoán của các chuyên gia đúng với thực tế (40%-60%) và thấp hơn (có thể thấp đến 10%-15%) khi chủng cúm mới xuất hiện.
Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ này còn phụ thuộc vào người tiêm chủng do các yếu tố như tình trạng sức khỏe, t.uổi tác, lịch sử bệnh cúm… Đáng lưu ý: hiệu quả bảo vệ của vaccine không nhất thiết phụ thuộc vào mức độ tiên tiến của nền y tế tại quốc gia đó.
Người Mỹ còn thực hiện các biện pháp hạn chế sự lây lan của virus trong mùa cúm như: tự nghỉ học, nghỉ làm và tự cách ly khi bị bệnh, đeo khẩu trang khi có các triệu chứng ho hoặc hắt xì (một số nơi còn để sẵn khẩu trang và khuyến khích tự đeo khi có dấu hiệu bệnh), rửa tay thường xuyên; hoặc các biện pháp bắt buộc như buộc học sinh bị bệnh nghỉ học và không cho phép t.rẻ e.m dưới 14 t.uổi vào thăm bệnh tại các khu vực bệnh viện trong mùa cúm.
Nguồn: Immunisation Coalition
Vì sao Mỹ và Úc không thực hiện lệnh phong tỏa mà dịch cúm vẫn hạ nhiệt vào mỗi mùa hè?
Các chuyên gia nghiên cứu dịch cúm vẫn chưa tìm ra được câu trả lời chắc chắn cho hiện tượng này.
Dịch cúm hạ nhiệt không có nghĩa là virus biến mất, nhất là với mật độ du lịch dày đặc giữa các vùng và các quốc gia hiện hay. Lý giải chủ yếu là do khả năng lây lan của virus cúm giảm đi vào mùa hè hoặc ở các nước vùng nhiệt đới, có thể do các nguyên nhân sau:
– Ở nhiệt độ thấp, virus tồn tại lâu hơn bên ngoài cơ thể vật chủ, do đó khả năng gặp được một cá thể khác để gây nhiễm là cao hơn.
Ví dụ từ kinh nghiệm riêng của tác giả, virus cúm có thể được bảo quản trong vài tuần ở nhiệt độ tủ lạnh 4oC trong dung dịch muối thích hợp bên ngoài tế bào vật chủ, nhưng khi để bên ngoài tủ lạnh (vẫn trong điều kiện phòng máy lạnh) thì lượng virus này có thể bị giảm đi đáng kể. Tác giả chưa thực hiện bảo quản virus cúm ở nhiệt độ ấm để so sánh.
– Sự tồn tại của virus bên ngoài vật chủ cũng phụ thuộc vào độ ẩm môi trường nhưng theo quy luật phức tạp hơn.
Ở điều kiện độ ẩm thấp (độ ẩm tương đối dưới 20%), các giọt b.ắn do ho hoặc hắt xì sẽ bị bay hơi nước một phần nên có thể có kích thước thấp hơn 5 micromet, giúp virus lây lan theo hình thức lây lan trong không khí (airborne transmission). Ở độ ẩm cao (trên 80%), các giọt b.ắn có thể hấp thu hơi nước, trở nên to lên và rơi xuống nên virus không gây nhiễm kể cả ở khoảng cách gần.
Ở các độ ẩm trung bình, cả hai quá trình đều có thể diễn ra.
– Vào mùa đông các hoạt động và sinh hoạt chủ yếu được thực hiện trong nhà, con người ở gần nhau hơn, do đó tăng mật độ tương tác và lây bệnh.
– Mùa hè thường có nhiều hoạt động ngoài trời hơn, nên con người cũng có xu hướng khỏe mạnh hơn và chống chọi với virus cúm tốt hơn.
Một nghiên cứu năm 2007 đăng trên tạp chí Plos Pathogens của Giáo sư Peter Palese, một trong các giáo sư đầu ngành tại Mỹ, đã nhốt con lợn Guinea bị nhiễm virus cúm (H1N1 hoặc H3N2) cạnh chuồng một con lợn khỏe mạnh trong các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm khác nhau để nghiên cứu sự lây nhiễm qua giọt b.ắn (aerosol transmission). Kết quả cho thấy ở 5oC sự lây nhiễm là cao nhất, rồi đến 20oC và ở 30oC thì gần như không có lây nhiễm.
Độ ẩm tương đối của không khí trên 80% cũng được quan sát là không thuận lợi cho sự lây nhiễm của virus cúm, còn độ ẩm ở khoảng 50% cũng được xem là có độ lây lan thấp.
Sau đó, để giải thích các ca lây nhiễm trong mùa hè, nhóm tác giả này nhốt chung lợn bệnh và lợn khỏe mạnh để nghiên cứu sự lây nhiễm do tiếp xúc trực tiếp (tương tự như bắt tay hoặc dùng chung ly muỗng ở người). Kết quả cho thấy lây nhiễm do tiếp xúc trực tiếp không phụ thuộc vào nhiệt độ hoặc độ ẩm. Do đó, họ cho rằng những ca bệnh trong mùa hè là do lây nhiễm do tiếp xúc trực tiếp chứ không phải do giọt b.ắn khi người bệnh ho hoặc hắt hơi.
Con số trong hình tam giác nhỏ tượng trưng cho số thí nghiệm được lặp lại với kết quả tương tự (Nguồn: https://jvi.asm.org/content/88/14/7692).
Quay trở về virus Corona, liệu rằng điều kiện khí hậu nhiệt đới và lối sinh hoạt ở nước ta có là một yếu tố thuận lợi cho việc kiểm soát dịch như đối với cúm hay không; liệu những thông tin về cúm trong bài có thể lý giải cho việc số ca bệnh tại Việt Nam không tăng mạnh như các nước ôn đới đang mùa đông (như Trung Quốc, Hàn Quốc) hoặc nước nhiệt đới nhưng lại sử dụng hệ thống máy lạnh dày đặc (như Singapore) hay không vẫn chưa được khoa học chứng minh.
Bởi vì mỗi kết luận đáng tin cậy đều cần phải được kiểm chứng bằng những thí nghiệm công phu được thiết kế và thực hiện cẩn thận như ví dụ trong bài, hoặc dựa vào những dữ liệu dịch tễ thực tế được thu thập trong thời gian dài. E rằng sẽ khó có lời dự đoán chính xác trong thời gian ngắn sắp tới do virus Corona và cúm thuộc hai họ virus khác nhau, nên chúng vẫn có thể có các cách thức lây lan và ảnh hưởng đến các cộng đồng khác nhau.
Việc chúng ta có thể làm bây giờ là quan sát những cụm dịch mới xuất hiện và cảnh giác đề phòng nhưng không quá hoang mang lo lắng. Trong một nghiên cứu trên 45.000 người tại Trung Quốc, tỉ lệ người mắc bệnh nhưng không có biểu hiện chỉ chiếm khoảng 1,2%; hầu hết người mắc bệnh đều có biểu hiện bệnh là sốt, ho khan và mệt mỏi. Do đó, chúng ta có hi vọng là nếu mỗi người dân đều biết về bệnh dịch và là những quan sát viên tích cực thì những cụm dịch mới tại Việt Nam, nếu có, sẽ sớm được phát hiện và loại bỏ.
Tài liệu tham khảo:
https://www.immunisationcoalition.org.au/wp-content/uploads/2018/03/17Dec-Aust-Flu-Stats-2019.pdf
https://www.cdc.gov/flu/weekly/index.htm
https://www.cdc.gov/flu/vaccines-work/vaccineeffect.htm
https://journals.plos.org/plospathogens/article?id=10.1371/journal.ppat.0030151
https://jvi.asm.org/content/88/14/7692
https://github.com/cmrivers/ncov/blob/master/COVID-19.pdf – The epidemiological characteristics of an outbreak of 2019 novel coronavirus diseases (COVID-19) in China – China CDC Weekly
Theo toquoc