Ung thư bàng quang: Có dấu hiệu này tế bào ác tính đã di căn xa

Triệu chứng ung thư bàng quang thường rất khó nhận biết. Khi có biểu hiện đau hông lưng, đau trên xương mu, đau xương… thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.

Ung thư bàng quang thường không có triệu chứng rõ ràng, chủ yếu tiểu m.áu. Ngoài ra, người bệnh có thể gặp các dấu hiệu khác như: bí tiểu, tiểu són, tiểu đau/ buốt, đau tức vùng thắt lưng – chậu.

Ở giai đoạn muộn của ung thư bàng quang, tế bào ung thư đã di căn xa, sẽ xuất hiện các biểu hiện sau:

– Đau hông lưng

– Đau trên xương mu

– Đau hạ vị

– Đau tầng sinh môn

– Đau xương

– Đau đầu

Ngoài ra, người bệnh có thể thấy mệt mỏi, gầy sút cân, chán ăn…

Theo Bệnh viện K Trung ương, hút t.huốc l.á dù chủ động hay thụ động thì vẫn là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất, gặp trong 50% trường hợp ở nam và 20 – 30% ở nữ. Nguyên nhân do các chất amin thơm và hydrocacbon thơm đa vòng trong t.huốc l.á được hấp thụ từ phổi vào m.áu, lọc qua thận và tập trung trong nước tiểu, gây tổn hại bàng quang làm tăng nguy cơ phát triển ung thư. Những người hút t.huốc l.á có khả năng mắc ung thư bàng quang cao gấp 2,5 -7 lần so với người không hút t.huốc l.á.

Tiếp xúc với môi trường hóa chất độc hại như asen, thuốc nhuộm, cao su, da, dệt may và các loại sơn… làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nghề nghiệp tiếp xúc với các amin thơm, hydrocarbon thơm đa vòng là yếu tố quan trọng gây ra tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở nam giới do tính chất công việc thường do nam giới đảm nhiệm.

Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố di truyền, t.iền sử gia đình. 80 – 90% trường hợp mắc bệnh tự phát không do di truyền, 10 – 20% các trường có yếu tố gia đình/di truyền, thường đi kèm với hội chứng ung thư biểu mô đại trực tràng di truyền không đa polyp. Những người có thành viên trong gia đình bị ung thư bàng quang có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Một số yếu tố nguy cơ khác như: chế độ ăn, tình trạng viêm nhiễm đường niệu và một số thuốc điều trị có thành phần gián tiếp gây bệnh…

Ung thư tuyến mồ hôi – hiếm nhưng nguy hiểm

Ung thư tuyến mồ hôi là bệnh hiếm gặp, chiếm tỷ lệ không cao trong ung thư, nhưng số ca mắc gia tăng nhanh trong những năm gần đây.

Tuy là một bệnh lý hiếm gặp, song ung thư tuyến mồ hôi lại là một thách thức trong việc chẩn đoán và khó khăn trong điều trị.

Chẩn đoán khó khăn

Ung thư tuyến mồ hôi (UTTMH) là một loại bệnh lý do sự phát triển quá mức và mất kiểm soát của tuyến mồ hôi, có khả năng xâm lấn ra mô xung quanh và di căn.

Đến nay, y học thế giới vẫn chưa biết chính xác nguyên nhân trực tiếp gây UTTMH. Bệnh có liên quan đến tia cực tím (UV), khi tia này tiếp xúc với da gây ra hiện tượng suy giảm miễn dịch của phần da nơi tiếp xúc.

Ung thư tuyến mồ hôi xuất phát từ những cấu trúc phần phụ của da, ban đầu là những nốt nhỏ, diễn tiến rất chậm trong thời gian dài rồi đột ngột gia tăng kích thước. Không có hình ảnh đặc trưng nào giúp xác định chẩn đoán, chỉ đến khi các khối u trên cơ thể bệnh nhân có hiện tượng ra m.áu, tiết dịch thì triệu chứng mới rõ ràng.

Trên lâm sàng, vị trí các tổn thương của bệnh UTTMH nhiều nhất là ở mặt: 48,6%; các chi: 19%; vùng thân mình: 17,4%; da đầu và cổ chiếm 14%. Đa phần các trường hợp được phát hiện đều xuất hiện một cục cứng trong da, nằm ở vị trí cẳng chân, đùi phải hoặc đùi trái và vai, cánh tay.

Tổn thương trên lâm sàng là một khối bướu kích thước nhỏ dưới da, không đối xứng, giới hạn không rõ ràng, sượng cứng, xâm nhiễm ra da, bề mặt da sẫm màu hoặc có màu hồng. Ban đầu khối bướu có thể nhỏ, không đáng quan tâm, nhưng càng về sau bướu lớn dần, xâm chiếm vào mô, xương, gây đau nhức dữ dội cho bệnh nhân.

Một đặc trưng nữa, UTTMH là loại ung thư di căn rất nhanh đến hạch bạch huyết, do vậy ngoài tổn thương nguyên phát, các tổn thương hạch vùng nách, hạch cổ là những triệu chứng chính khiến người bệnh tìm đến khám và điều trị. Những khối hạch thường tròn, cứng, có thể rời rạc hoặc dính chùm với nhau.

Các hạch này thường không gây đau đớn. Gan, phổi hay xương là những vị trí thường bị di căn nhiều nhất.

Ung thư tuyến mồ hôi xuất phát từ những cấu trúc phần phụ của da.

Ai dễ mắc?

Nam giới thường mắc bệnh UTTMH nhiều hơn nữ (song cũng chưa rõ nguyên nhân). Bệnh thường gặp từ độ t.uổi trung niên, khoảng 50 – 60 t.uổi.

Ngoài ra, người ta thấy các loại thuốc điều trị khớp và kháng viêm sử dụng dài ngày cũng có vai trò trong việc gia tăng tỷ lệ loại ung thư này.

Điều trị cách gì?

Ảnh minh họa

Ung thư tuyến mồ hôi thường không nhạy với xạ trị, hóa trị cũng ít có vai trò trong điều trị. Vì vậy, phẫu thuật là phương pháp được xem hiệu quả hơn cả, nhất là khi bệnh còn khu trú tại chỗ, hoặc chưa có di căn. Diễn tiến của bệnh là phá hủy cấu trúc tại chỗ dữ dội và khả năng tái phát cao: tỷ lệ tái phát sau cắt rộng tại chỗ từ 47 – 59%.

Do vậy, sau phẫu thuật bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và đều đặn nhằm phát hiện sự tái phát hoặc sự xuất hiện một ung thư da khác.

Khi bướu tái phát, dẫu chưa sờ thấy hạch, bệnh nhân vẫn được chỉ định nạo hạch phòng ngừa vì những trường hợp này thường có nguy cơ di căn rất cao. Để tiên lượng diễn tiến bệnh, thông thường bác sĩ sẽ dựa vào các yếu tố liên quan như kích thước bướu, loại mô học, tình trạng di căn hạch hoặc di căn xa, song thực tế điều này cũng rất khó.

Nếu chưa có hạch di căn, (chưa gây bệnh cho các cơ quan khác) khoảng 56% bệnh nhân sẽ sống được thêm 10 năm. Nếu bệnh đã di căn hạch hoặc di căn xa đến các cơ quan khác trong cơ thể, tỷ lệ này chỉ còn 9%.

Khi nhận thấy trên da xuất hiện những u nhỏ, hoặc có thay đổi bất thường nào đó, người bệnh nên đến khám tại các trung tâm chuyên khoa ung bướu để được chẩn đoán kịp thời.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *