Ung thư vú: Đừng để quá muộn!

Ung thư vú không phải là một đề tài mới, nhưng lại chưa bao giờ cũ vì căn bệnh thường gặp nhất trong các bệnh ung thư này vẫn luôn rình rập những người phụ nữ và người thân của họ.

Đừng để mọi chuyện trở nên muộn màng. Trang bị cho mình những kiến thức và biết tự bảo vệ mình chính là cách bạn mang lại hạnh phúc cho chồng con và người thân. Tỷ lệ mắc ung thư vú trong những năm gần đây có xu hướng tăng lên tại nhiều nước, đặc biệt ở một số nước đang phát triển do thay đổi theo lối sống phương Tây, tuy nhiên tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư vú lại đang giảm đi nhờ các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm.

Đối với bệnh ung thư nói chung và ung thư vú nói riêng, việc nhận biết được các yếu tố nguy cơ và phòng tránh chúng có thể làm giảm được 1/3 nguy cơ mắc bệnh. Các yếu tố nguy cơ bệnh ung thư vú vẫn đang được nghiên cứu, tuy nhiên một số yếu tố được khẳng định có liên quan đến bệnh ung thư vú bao gồm:

1. Yếu tố gia đình

Được xếp vào nhóm nguy cơ cao gồm những người có t.iền sử gia đình bị ung thư vú như: mẹ, chị em gái. Phụ nữ có mẹ, chị em gái bị ung thư vú có nguy cơ mắc ung thư vú cao gấp 2 – 3 lần so với phụ nữ có mẹ, chị em gái không bị ung thư vú. Những phụ nữ ung thư vú có liên quan đến t.iền sử gia đình thường có xu hướng trẻ hơn và có tỷ lệ ung thư vú hai bên cao hơn.

2. Gen

Biến đổi (hay đột biến) một số gen có thể làm tế bào chuyển thành ác tính. Năm 1994, người ta tìm thấy sự liên quan giữa đột biến gen ức chế u BRCA-1 và BRCA-2 nằm trên nhiễm sắc thể 17 và 13 với ung thư vú, ung thư buồng trứng và một số loại ung thư khác.

Do nằm trên nhiễm sắc thể thường, các gen này có thể di truyền từ bố hoặc mẹ (50% có khả năng nhận từ bố, 50% có khả năng nhận từ mẹ). Những phụ nữ mang các gen này có nguy cơ cao bị ung thư vú.

Khoảng 5% các trường hợp ung thư vú có đột biến gen BRCA-1 và thường bị bệnh khi còn trẻ. Ngoài ra, gen này cũng làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư t.iền liệt tuyến và đại tràng.

Đột biến gen BRCA-2 cũng có nguy cơ gây ung thư vú ở nữ tương đương với nguy cơ đột biến gen BRCA-1. Ung thư buồng trứng cũng có thể xảy ra với đột biến gen này nhưng nguy cơ thấp hơn so với gen BRCA-1.

Đột biến gen p53 và một số gen khác cũng liên quan với nguy cơ ung thư vú. Những hội chứng do các rối loạn về di truyền như hội chứng Li-Fraumeni, hội chứng Cowden, hội chứng Muir, giãn mạch thất điều cơ cũng có thể làm xuất hiện ung thư vú. Những nghiên cứu gần đây cho thấy có khoảng 10% ung thư vú do di truyền.

3. T.uổi tác

T.uổi càng cao, nguy cơ mắc ung thư vú càng tăng. Số bệnh nhân bắt đầu bị bệnh lúc trên 50 t.uổi chiếm trên 70% tổng số bệnh nhân ung thư vú. Phụ nữ dưới 30 t.uổi rất hiếm khi mắc ung thư vú.

4. Các yếu tố nội tiết

Ung thư vú là một trong số các ung thư có liên quan mật thiết với nội tiết nữ, cụ thể là estrogen được sản xuất chủ yếu tại buồng trứng. Một trong những tác dụng của estrogen là làm tăng sinh các tế bào biểu mô tuyến vú, cần thiết cho quá trình sinh sản, nuôi con.

Tuy nhiên, nếu tế bào tuyến vú tiếp xúc với estrogen quá nhiều, các tế bào tăng sinh mạnh kết hợp với các đột biến có thể xảy ra trong quá trình phân chia tế bào sẽ có khả năng phát triển thành ung thư vú. Do đó những yếu tố làm tăng thời gian tiếp xúc của tuyến vú với estrogen đều có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Có thể liệt kê một số yếu tố sau:

– T.uổi bắt đầu có kinh sớm làm tế bào tuyến vú sớm tiếp xúc estrogen. Những người có kinh sớm cũng có nồng độ estrogen cao hơn những người có kinh muộn.

– T.uổi mãn kinh muộn hoặc đã mãn kinh nhưng dùng nội tiết thay thế có chứa estrogen cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nguy cơ ung thư vú có thể giảm một nửa ở phụ nữ mãn kinh trước 45 t.uổi so với mãn kinh sau 55 t.uổi. Những phụ nữ chưa mãn kinh nhưng phải cắt bỏ buồng trứng vì một lý do nào đó cũng giảm nguy cơ ung thư vú.

– Mang thai và ung thư vú cũng có mối liên quan. Những phụ nữ không sinh con có nguy cơ bị ung thư vú cao gấp 1,4 lần phụ n.ữ s.inh con. Nếu phụ nữ mang thai lần đầu sau 30 t.uổi có nguy cơ bị bệnh gấp 2 đến 5 lần so với phụ nữ mang thai đủ thời gian trước 18 t.uổi.

– Không cho con bú cũng là một yếu tố nguy cơ. Nguy cơ ung thư vú sẽ giảm 4% cho mỗi năm mà người phụ nữ cho con bú.

– T.iền sử bị các bệnh tại vú: Viêm vú trong khi sinh đẻ và một số bệnh vú lành tính như quá sản không điển hình (atypical hyperplasia) cũng là các yếu tố tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

– Ít vận động, béo phì: Những phụ nữ béo, đặc biệt khi đã mãn kinh liên quan với nguy cơ ung thư vú tăng. Người ta cho rằng estrogen được sinh ra trong mô mỡ đã làm tăng nguy cơ ung thư vú ở những người này. Nguy cơ ung thư vú tăng khoảng 9% ở người ít vận động.

– Tiếp xúc với tia phóng xạ: Phụ nữ tiếp xúc với tia phóng xạ khi còn trẻ như phải điều trị bằng tia xạ tại vùng ngực vì các bệnh ác tính khác (như u lymphô ác tính không Hodgkin hoặc Hodgkin) có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn những phụ nữ khác gấp 12 lần.

Theo ghi chép của Tiến sĩ Trần Văn Thuấn – Phó GĐ BV K, Trưởng Khoa Nội II BV K (2008)

Theo Đẹp Online

Hơn 15.000 ca mắc ung thư vú được phát hiện mỗi năm

Mỗi năm ở nước ta có 164.671 sô ca mắc mới ung thư, trong đó ung thư vú là 15.229 ca (chiếm tỉ lệ 9,2%).

Vừa qua, Bệnh viện K cũng phối hợp cùng Quỹ Hỗ trợ bệnh nhân ung thư Ngày mai tươi sáng tổ chức khám sàng lọc ung thư vú miễn phí cho gần 300 phụ nữ tại cơ sở Quán Sứ của Bệnh viện.

Theo các chuyên gia y tế, phụ nữ bước sang t.uổi 40 nên tiến hành tầm soát ung thư vú thường xuyên.

Đây là hoạt động thiết thực để chị em phụ nữ yêu thương bản thân mình, giữ gìn sức khỏe và vẻ đẹp tư tin để hoàn thành sứ mệnh cao cả làm vợ, làm mẹ, cống hiến cho xã hội.

GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K cho biết, theo thống kê của Tổ chức ung thư toàn cầu (GLOBOCAL) năm 2018, mỗi năm ở nước ta có 164.671 sô ca mắc mới ung thư, trong đó ung thư vú là 15.229 ca (chiếm tỉ lệ 9,2%).

Tuy nhiên, Giám đốc Bệnh viện K cho rằng, đây là căn bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp, phát hiện càng sớm thì việc điều trị càng đơn giản, hiệu quả, tỉ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp.

Chính vì vậy, việc tầm soát và phát hiện sớm ung thư vú ngay khi phụ nữ sang độ t.uổi có nguy cơ mắc bệnh cao (từ độ t.uổi 40 trở lên) rất quan trọng.

Theo Giám đốc Bệnh viện K, hiện phương pháp điều trị ung thư vú đã có những bước tiến lớn như phẫu thuật, xạ trị, hóa chất và kết hợp với liệu pháp nội tiết tố, liệu pháp sinh học (điều trị nhắm trúng đích). Chất lượng điều trị do đó hiện được cải thiện đáng kế. Tuy nhiên, yếu tố then chốt để điều trị hiệu quả là phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm.

“Nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn đầu thì có thể chữa khỏi hoàn toàn. Bệnh nhân ung thư vú nếu phát hiện sớm ở giai đoạn I thì tỷ lệ sống trên 5 năm là 100%. Đến giai đoạn 4 thì thường quá trình điều trị chỉ để kéo dài cuộc sống, giảm các triệu chứng đau đớn”, GS.TS. Trần Văn Thuấn khẳng định.

Các chuyên gia y tế cho biết, ung thư vú ở giai đoạn đầu thường không gây đau đớn và có thể không có triệu chứng gì. Các chị em có thể không nhận thấy các triệu chứng ung thư, hoặc có thể bỏ qua, cho rằng chúng ít nghiêm trọng. Nhưng khi các triệu chứng dưới đây kéo dài hơn hai tuần, chúng có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư vú hoặc phụ khoa và chị em cần đến các cơ sở y tế uy tín để được khám, tư vấn và chẩn đoán:

Một số yếu tố nguy cơ gây ung thư vú, bạn cần lưu ý như độ t.uổi (ung thư vú có thể gặp ở mọi lứa t.uổi, đặc biệt là những phụ nữ trên 40 t.uổi); mắc bệnh lý về tuyến vú như xơ vú, áp xe vú…; yếu tố di truyền; phụ nữ dậy thì sớm (trước 12 t.uổi) và mãn kinh muộn (sau 55 t.uổi); béo phì; lối sống và sinh hoạt thiếu khoa học; phơi nhiễm phóng xạ…

D.Ngân

Theo baohaiquan

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *