Những trường hợp nào nên dùng kháng sinh, những trường hợp nào thì không, những thông tin này vẫn luôn khiến các bố mẹ có con nhỏ vô cùng hoang mang.
Thuốc kháng sinh là một loại vũ khí tuyệt vời do con người tạo ra nhằm chống lại các bệnh do vi khuẩn, vi trùng gây ra. Tuy nhiên, không phải bất kỳ bệnh nào cũng có thể dùng thuốc kháng sinh để chữa trị, vì đây là loại thuốc chống lại vi khuẩn, chứ không phải là virus. Và việc dùng thuốc không đúng sẽ gây ra tác hại đối với người bệnh, nhất là t.rẻ e.m.
Thế nên, các chuyên gia ở Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ đã giải đáp 10 câu hỏi thắc mắc của các cha mẹ xoay quanh việc dùng thuốc kháng sinh cho con.
Câu hỏi 1: Con tôi bị cảm rất nặng? Tại sao bác sĩ không kê đơn thuốc kháng sinh?
Cha mẹ cần biết rằng cảm lạnh là do virus gây ra. Trong khi đó, thuốc kháng sinh chỉ được sử dụng đặc biệt cho các bệnh n.hiễm t.rùng mà vi khuẩn là nguyên nhân. Thế nên, bác sĩ không kê đơn thuốc kháng sinh cho con bạn là đúng. Vì hầu hết các triệu chứng cảm lạnh thông thường như sổ mũi, ho, nghẹt mũi đều sẽ tự khỏi mà không cần phải dùng bất cứ loại thuốc nào. Và việc trẻ bị cảm là chuyện rất bình thường, trung bình các bé sẽ bị cảm từ 6 – 8 lần/năm.
T.rẻ e.m bị cảm là chuyện rất bình thường, trung bình các bé sẽ bị cảm từ 6 – 8 lần/năm (Ảnh minh họa).
Câu hỏi 2: Thế lỡ có một số triệu chứng cảm lạnh sẽ chuyển thành n.hiễm t.rùng do vi khuẩn thì sao? Tại sao lại không dùng kháng sinh ngay từ đầu để ngăn chặn điều đó?
Trong hầu hết các trường hợp, n.hiễm t.rùng do vi khuẩn không theo sau bệnh cảm lạnh do virus gây ra. Do đó, nếu sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị nhiễm virus có thể dẫn đến n.hiễm t.rùng do vi khuẩn kháng thuốc. Ngoài ra, trẻ còn có thể bị tiêu chảy hoặc các phản ứng phụ khác.
Vậy nên, nếu con bạn bị tiêu chảy ra nước, ra m.áu hoặc có các tác dụng phụ khác khi dùng thuốc, hãy đưa con gặp bác sĩ ngay.
Câu hỏi 3: Không phải nước mũi chảy ra chất nhầy màu vàng hoặc xanh là dấu hiệu của n.hiễm t.rùng do vi khuẩn sao?
Mặc dù trẻ bị sổ mũi có chất nhầy màu vàng hoặc xanh trong mũi, nhưng điều này không có nghĩa là cần phải cho con dùng thuốc kháng sinh. Thông thường khi bị cảm lạnh, chất nhầy từ mũi sẽ chuyển từ trong sang màu xanh hoặc vàng là điều bình thường. Các triệu chứng này có thể kéo dài trong khoảng 10 ngày.
Viêm xoang là một thuật ngữ chỉ tình trạng viêm niêm mạc của mũi và các xoang. Virus hoặc dị ứng có thể gây viêm xoang và trong một số trường hợp, vi khuẩn có thể là nguyên nhân. Vì thế, nếu thấy con bị cảm lạnh thông thường kèm theo ho, đờm xanh kéo dài hơn 10 ngày, hoặc con có đờm đặc màu vàng hay xanh lá cây và sốt cao hơn 39 độ C trong ít nhất 3 – 4 ngày thì đây có thể là dấu hiệu của bệnh viêm xoang do vi khuẩn gây ra.
Tuy nhiên, trường hợp này rất ít khi xảy ra. Song, nếu chẳng may trẻ rơi vào tình huống này, các bác sĩ sẽ kê đơn thuốc kháng sinh cho trẻ. Và đến lúc này, trẻ mới phải cần dùng đến kháng sinh.
Câu hỏi 4: Thuốc kháng sinh không phải để điều trị n.hiễm t.rùng tai, đúng hay sai?
Hầu hết những bệnh n.hiễm t.rùng tai là do virus gây ra nên không cần phải dùng kháng sinh để điều trị. Trong quá trình thăm khám, nếu phát hiện nguyên nhân gây n.hiễm t.rùng tai là do virus, các bác sĩ sẽ hướng dẫn cha mẹ những cách tốt nhất để giảm đau tai cho con cho đến khi khỏi bệnh. Ít nhất một nửa các ca n.hiễm t.rùng tai biến mất mà không cần dùng thuốc kháng sinh.
Song, trong trường hợp trẻ sốt, ngày càng đau tai nhiều hơn và n.hiễm t.rùng cả hai màng nhĩ, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc kháng sinh cho trẻ.
Câu hỏi 5: Có phải thuốc kháng sinh được sử dụng để điều trị tất cả các bệnh viêm họng không?
Không. Hơn 80% trường hợp viêm họng là do virus gây ra . Nếu con bạn bị đau họng, chảy nước mũi và ho khan thì chắc chắn nguyên nhân gây bệnh là virus. Vì vậy, không nên thực hiện xét nghiệm “liên cầu khuẩn”.
Kháng sinh chỉ nên được sử dụng để điều trị bệnh viêm họng do liên cầu khuẩn nhóm A gây ra (Ảnh minh họa).
Kháng sinh chỉ nên được sử dụng để điều trị bệnh viêm họng do liên cầu khuẩn nhóm A gây bệnh. Đây là loại vi khuẩn có tên gọi là “viêm họng liên cầu”. Thông thường, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 3 t.uổi hiếm khi bị viêm họng, nhưng con có nhiều khả năng bị nhiễm liên cầu khuẩn nếu trong nhà có anh chị hoặc trong lớp có bạn bị nhiễm bệnh này.
Mặc dù vi khuẩn liên cầu chủ yếu lây lan qua ho, hắt hơi nhưng trẻ vẫn có thể bị bệnh nếu chạm vào đồ chơi mà người nhiễm bệnh đã chạm vào.
Trong trường hợp nghi ngờ trẻ bị viêm họng do liên cầu khuẩn, các bác sĩ sẽ cho trẻ thực hiện xét nghiệm. Và nếu kết quả xét nghiệm dương tính, thuốc kháng sinh sẽ được kê đơn.
Câu hỏi 6: Thuốc kháng sinh có gây ra tác dụng phụ nào không?
Trên thực tế, cứ 10 trẻ thì sẽ có 1 trẻ dùng thuốc kháng sinh. Các tác dụng phụ của loại thuốc này bao gồm: phát ban, buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng và phản ứng dị ứng. Thế nên, cha mẹ cần nói rõ với bác sĩ nếu con bạn đã từng bị ảnh hưởng bởi tác dụng phụ của thuốc kháng sinh trong quá khứ.
Câu hỏi 7: Thuốc kháng sinh mất bao lâu để có tác dụng?
Hầu hết các bệnh n.hiễm t.rùng do vi khuẩn sẽ giảm bớt trong vòng từ 48 đến 72 giờ sau khi bắt đầu dùng thuốc kháng sinh. Nếu các triệu chứng của con bạn trở nên tồi tệ hơn, hoặc không cải thiện trong vòng 72 giờ, hãy liên hệ bác sĩ để được tư vấn thêm.
Ngoài ra, cha mẹ không nên tự ý cho con ngừng dùng thuốc kháng sinh quá sớm so với quy định của bác sĩ. Bởi khi bệnh n.hiễm t.rùng chưa được điều trị dứt điểm, chúng có thể tái phát trở lại và nguy hiểm hơn do vi khuẩn kháng kháng sinh.
Câu hỏi 8: Dùng nhiều thuốc kháng sinh có thể dẫn đến việc vi khuẩn kháng thuốc không?
Việc sử dụng nhiều lần và lạm dụng thuốc kháng sinh có thể dẫn đến vi khuẩn kháng thuốc. Vi khuẩn kháng thuốc là vi khuẩn không còn bị t.iêu d.iệt bởi các loại thuốc kháng sinh thường được sử dụng để điều trị n.hiễm t.rùng do vi khuẩn đó gây ra nữa. Những vi khuẩn kháng thuốc này cũng có thể lây lan cho t.rẻ e.m và người lớn khác.
Lúc này, điều quan trọng là con bạn cần phải sử dụng loại thuốc kháng sinh đặc trị liều cao cho một loại bệnh n.hiễm t.rùng, chứ không phải là loại thuốc kháng sinh điều trị chung cho nhiều bệnh nữa. Thậm chí, những loại thuốc đặc trị này cần được truyền qua đường tĩnh mạch trong bệnh viện.
Câu hỏi 9: Thuốc kháng virus là gì?
Thuốc kháng virus sẽ có thể được kê cho những đ.ứa t.rẻ có nguy cơ bị bệnh nặng hơn nếu bị cúm. Riêng đối với virus gây ra các triệu chứng ho và cảm lạnh thì không có loại thuốc kháng virus nào hoạt động nên các bác sĩ đều khuyến cáo không nên sử dụng.
Câu hỏi 10: Làm thế nào để có thể sử dụng kháng sinh một cách an toàn?
Để sử dụng thuốc kháng sinh một cách an toàn, các cha mẹ cần:
– Cho con uống đúng loại thuốc, liều lượng theo hướng dẫn của bác sĩ.
– Không sử dụng một loại thuốc kháng sinh cho tất cả mọi đ.ứa t.rẻ. Vì nếu dùng thuốc sai sẽ gây hại cho sức khỏe của người bệnh.
– Giữ thuốc kháng sinh và các loại thuốc khác ở một nơi an toàn để tránh trường hợp trẻ tự lấy thuốc uống.
– Vứt bỏ hết thuốc kháng sinh và các loại thuốc theo toa còn sót lại. Mỗi khi trẻ bị bệnh thì cha mẹ nên đưa con đi khám bác sĩ để được kê toa thuốc mới.
Ngoài ra, nếu cha mẹ có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc, về cách chăm sóc trẻ khi bị ốm thì hãy nhờ bác sĩ nhi khoa tư vấn thêm. Và tuyệt đối đừng bao giờ mua thuốc ngoài hiệu thuốc mang về cho con uống mà chưa có sự đồng ý của bác sĩ.
Cuộc chiến với ung thư đã kéo dài 108 năm, vì sao chúng ta chưa thắng cuộc?
Không giống như bệnh do vi khuẩn hay virus, ung thư phát sinh từ chính các tế bào bên trong cơ thể của con người và điều này khiến mọi chuyện phức tạp hơn rất nhiều.
Đã hơn 1 thế kỷ trôi qua kể từ khi con người lần đầu tiên phát hiện ra tế bào ung thư. Nền y học đã có những bước phát triển vượt bậc trong từng ấy thời gian, và cũng đã giúp chúng ta chữa khỏi được nhiều căn bệnh từng được coi là nan y, thế nhưng tại sao chúng ta vẫn chưa làm được điều đó với ung thư?
Việc điều trị ung thư không giống như cách chúng ta t.iêu d.iệt một mầm bệnh ngoại lai như: vi khuẩn, virus, nấm bệnh, điều mà nền y học có thể thực hiện một cách dễ dàng. Ung thư phát sinh từ chính các tế bào bên trong cơ thể của con người và điều này khiến mọi chuyện phức tạp hơn rất nhiều.
Theo ý kiến chung của nhiều chuyên gia, có 3 yếu tố chính tạo nên khả năng bất bại của căn bệnh nan y này, đó là: sự tăng sinh không giới hạn và di căn của các tế bào ung thư; khả năng kháng các phương pháp điều trị; sự hạn chế của các phương pháp điều trị hiện có.
Sự tăng sinh không giới hạn và di căn của các tế bào ung thư
Cần hiểu rằng, ung thư khởi phát từ sự phân chia không kiểm soát của các tế bào có bộ gen bị hư hại, đột biến trong cơ thể. Vì quá trình nhân đôi được thực hiện liên tục, các tế bào ung thư sẽ được sản sinh thêm với tốc độ chóng mặt và không ngừng xâm lấn sang các mô khỏe mạnh ở lân cận; bước cuối cùng, khi ung thư xâm nhập vào hệ bạch huyết, nó có thể tự do di chuyển khắp cơ thể và hình thành khối u thứ phát ở những vị trí khác, quá trình này được gọi là di căn.
Sự phát triển nhanh chóng của các tế bào ung thư, cùng với việc khó xác định được phạm vi di căn của chúng gây ra nhiều khó khăn trong việc “tìm diệt” ung thư. Khi các tế bào ung thư không được kiểm soát và không ngừng phát triển, chúng sẽ dần phá hủy các mô và cơ quan bình thường, gây tổn hại nghiêm trọng đến các chức năng sống và cuối cùng dẫn đến cái c.hết của bệnh nhân.
Khả năng kháng các phương pháp điều trị
Đối với bệnh ung thư, việc điều trị sẽ có hiệu quả rõ rệt trong thời gian đầu, bằng chứng là các tế bào ác tính nhanh chóng bị t.iêu d.iệt, khối u giảm kích thước đáng kể và có thể biến mất. Tuy nhiên, sau giai đoạn này, các tế bào ung thư còn sót lại sẽ nhanh chóng biến đổi để thích nghi với “kẻ thù” của mình, từ đó dễ dàng sống sót trong các đợt điều trị tiếp theo, điều này dẫn đến hiện tượng ung thư bất ngờ quay trở lại sau một thời gian điều trị.
Có nhiều cơ chế giúp ung thư hình thành được khả năng kháng thuốc. Lấy ví dụ, trong một nghiên cứu vừa được công bố của của Trung tâm Ung thư Mays (Mỹ), các chuyên gia đã xác định các tế bào ung thư vú có thể linh hoạt chuyển đổi sang các hình dạng khác nhau, phát triển nhanh lên hay chậm đi hoặc thậm chí là thay đổi về kích cỡ để “lẩn trốn” phương pháp điều trị, thông qua những tín hiệu gen đặc biệt.
Bên cạnh đó, trong một nghiên cứu được thực hiện bởi các chuyên gia đến từ Đại học California (Mỹ), nhóm tác giả đã xác định được một quá trình gọi là macropinocytosis (Đại ẩm bào) cho phép các tế bào ung thư có thể phát triển khả năng kháng thuốc thông qua việc “ăn” các tế bào đã c.hết, từ đó mang lại cho chúng nguồn năng lượng và dưỡng chất để phát triển.
GS Aimee Edinger – Đại diện nhóm tác giả cho biết: “Các tế bào ung thư đòi hỏi một lượng dưỡng chất rất lớn. Hóa trị liệu và các phương pháp điều trị khác làm tổn thương ADN của tế bào ung thư, buộc chúng phải tìm cách hồi phục lại khả năng trao đổi chất, để có thể sửa chữa các thành phần bị hư hại, nhờ đó tiếp tục sinh tồn và phát triển. Bằng cách ăn các tế bào đã c.hết ở xung quanh, chúng có thể hấp thu được lượng amino axit, đường, axit béo và nucleotides cần thiết để phát triển”.
Sự hạn chế của các phương pháp điều trị ung thư
Vì tế bào ung thư bản chất là các tế bào của cơ thể nhân đôi không kiểm soát nên chúng gần như giống “phiên bản khỏe mạnh” của mình về cấu trúc, sự trao đổi chất, tính chất… Do đó, trong điều trị rất khó để tách biệt hoàn toàn tế bào ung thư và phần còn lại của cơ thể.
Các phương pháp điều trị phổ biến hiện nay như hóa trị, xạ trị khi tấn công tế bào ung thư thì đồng thời cũng gây tổn thương đến tế bào khỏe mạnh. Lấy ví dụ là hóa trị, bản chất của phương pháp này là sử dụng các loại hóa chất nhắm vào tế bào tăng sinh nhanh trong cơ thể. Tuy nhiên, tăng sinh nhanh là đặc điểm không chỉ có ở tế bào ung thư, mà còn ở tế bào tủy xương, tế bào nang lông, tế bào niêm mạc ruột…, khiến chúng vô tình trở thành nạn nhân của thuốc điều trị ung thư. Việc này dẫn đến các tác dụng phụ thường gặp ở bệnh nhân ung thư sau điều trị như:rụng tóc, mệt mỏi, thiếu m.áu, nôn nao, viêm loét dạ dày, các vấn đề về tiêu hóa.