Gây tê tủy sống là một trong những phương pháp giảm đau phổ biến, được sử dụng rộng rãi trong phẫu thuật. Đây là một kỹ thuật đơn giản, hiệu quả với tỷ lệ thành công cao.
Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm, phương pháp này vẫn còn những tác dụng và hậu quả không mong muốn xảy ra. Liên quan đến việc 2 sản phụ t.ử v.ong nghi do ngộ độc thuốc gây tê tại Đà Nẵng, bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc hiểu thêm về những biến chứng có thể xảy ra khi gây tê tủy sống.
Một số ưu điểm của gây tê tủy sống bao gồm giảm tỷ lệ huyết khối tĩnh mạch sâu, giảm mất m.áu trong phẫu thuật, cũng như ngăn ngừa suy hô hấp trong trường hợp khẩn cấp, đặc biệt là ở những bệnh nhân có vấn đề về đường hô hấp và bệnh hô hấp. Tuy nhiên, những trường hợp gặp phải hậu quả không mong muốn cùng những tác dụng phụ khác cũng đặt ra một thách thức thực sự đối với việc sử dụng thuốc gây tê tủy sống.
Hạ huyết áp
Hạ huyết áp là một biến chứng khó tránh khỏi của gây tê tủy sống. Giảm huyết áp có thể bắt đầu với biểu hiện buồn nôn và nôn. Trong trường hợp mang thai, việc giảm huyết áp ở mức tới hạn có thể ảnh hưởng đến cả mẹ và bé, và dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn trong một thời gian dài. Tăng huyết áp, t.uổi cao, chỉ số khối cơ thể tăng, cân nặng khi sinh cao hơn bình thường được coi là yếu tố nguy cơ hạ huyết áp khi thực hiện phẫu thuật với gây tê tủy sống.
Hạ thân nhiệt
Giảm nhiệt độ cơ thể thường gặp sau khi gây tê tủy sống. Nhiệt độ giảm khiến người bệnh rét run, đặc biệt là trong giai đoạn hậu phẫu. Hạ thân nhiệt gây ra đông m.áu và n.hiễm t.rùng. Vì thế cần đặc biệt chú ý biến chứng này, nhất là ở t.rẻ e.m, sản phụ và bệnh nhân t.uổi cao.
Đau đầu
Đau đầu sau gây tê tủy sống là một biến chứng thường thấy ở phụ nữ trung niên và bệnh nhân sản khoa. Phân biệt đau đầu sau gây tê tủy sống với các nguyên nhân gây đau đầu khác là cơn đau thường xảy ra ở vùng chẩm trước (vùng xung quanh trán, sau mắt hoặc đáy hộp sọ) và bắt đầu khi chuyển từ tư thế nằm ngửa sang ngồi hoặc đứng lên. Mức độ đau thay đổi từ nhẹ đến nặng và có thể âm ỉ hay đau nhói từng cơn. Chóng mặt, buồn nôn và nôn có thể gặp ở một số bệnh nhân. Nhức đầu thường xuất hiện vào ngày thứ hai hậu phẫu và có thể kéo dài từ 1-4 ngày, nhưng có trường hợp sớm nhất là 20 phút sau khi thực hiện gây tê tủy sống. Nguyên nhân chủ yếu là do dịch não tủy rò rỉ qua lỗ thủng màng cứng, làm giảm lớp rào cản đệm của dây thần kinh cảm giác, tăng áp lực não tủy.
Tỷ lệ mắc đau đầu sau gây tê tủy sống đã được báo cáo ở mức 2,5% ở bệnh nhân sản khoa và 0,37% ở các ca gây tê tủy sống. Tỷ lệ này cũng phụ thuộc vào loại kim và vị trí chọc kim cũng như tay nghề của phẫu thuật viên.
Mất thính giác là một biến chứng khác liên quan đến dịch não tủy rò rỉ qua lỗ thủng màng cứng. Biến chứng khiếm thính đặc biệt ảnh hưởng đến tần số thấp trên thính lực.
Bên cạnh những ưu điểm, gây tê tủy sống vẫn còn những tác dụng không mong muốn.
Triệu chứng thần kinh
Các triệu chứng bao gồm đau, cảm giác nóng rát ở mông, khó tiêu và dị cảm có thể được quan sát sau khi gây tê tủy sống. Những triệu chứng này thường thoáng qua và giảm dần trong vòng 2 ngày. Trong một đ.ánh giá khoa học, các tác giả chỉ ra rằng nguy cơ này thấp hơn với các thuốc gây tê cục bộ như bupivacaine, mepivacaine và prilocaine.
Bí tiểu
Gây tê tủy sống có thể gây bí tiểu, làm căng bàng quang trong giai đoạn hậu phẫu, tạo ra sự khó chịu cho bệnh nhân và có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng hơn, bao gồm chấn thương cơ detrusor vĩnh viễn. Đặt ống thông bàng quang là biện pháp giải tỏa bí tiểu, căng bàng quang nhưng không phải là vô hại – nguy cơ chấn thương niệu đạo và các biến chứng nghiêm trọng như n.hiễm t.rùng. Chức năng đi tiểu tự phát có thể cần một thời gian (ít nhất 2 giờ) để hồi phục sau hậu phẫu.
Một số yếu tố nguy cơ phẫu thuật có thể làm tăng tỷ lệ mắc bệnh bí tiểu, chẳng hạn như phẫu thuật h.ậu m.ôn trực tràng, thoát vị bẹn, phẫu thuật chỉnh hình (đặc biệt là hông), phẫu thuật bụng, phẫu thuật thẩm mỹ và thời gian chuyển dạ kéo dài. Bí tiểu sau gây tê tủy sống thường gặp ở nam giới, từ 50 t.uổi trở lên và có các vấn đề về tiểu tiện.
Biến chứng huyết học
Tụ m.áu cột sống sau gây tê tủy sống là một biến chứng nặng nề cần phải can thiệp phẫu thuật sớm để ngăn ngừa tổn thương thần kinh vĩnh viễn. Về mặt kinh điển, tỷ lệ mắc biến chứng này đã được ghi nhận là 1/ 220.000 bệnh nhân được gây tê tủy sống, nhưng tỷ lệ mắc bệnh thực tế vẫn chưa được biết và được cho là đang gia tăng. T.uổi cao, giới tính nữ, bệnh nhân dùng thuốc ảnh hưởng đến đông m.áu là yếu tố nguy cơ. Do đó, bệnh nhân dùng nhiều hơn một loại thuốc ảnh hưởng đến đông m.áu nên được đ.ánh giá cẩn thận.
N.hiễm t.rùng
Mặc dù viêm màng não do vi khuẩn sau khi gây tê tủy sống là một biến chứng hiếm gặp, nhưng trong trường hợp xảy ra, nó có thể gây ra tác hại nghiêm trọng, bao gồm khuyết tật thần kinh vĩnh viễn và t.ử v.ong. Áp- xe ngoài màng cứng thường do vi khuẩn trên da, vi khuẩn thường gặp nhất là S. aureus. Các nguyên nhân gây n.hiễm t.rùng ít phổ biến khác là liên cầu khuẩn hiếu khí và kỵ khí và trực khuẩn gram âm kỵ khí. Do đó, nhấn mạnh sự cần thiết phải tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng ngừa trong khi thực hiện gây tê tủy sống, đặc biệt ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
Biến chứng thần kinh
Tỷ lệ tổn thương thần kinh vĩnh viễn sau khi gây tê tủy sống dao động trong khoảng từ 0 – 4,2/ 10.000 bệnh nhân. Bệnh lý cột sống hoặc bệnh lý trước đó làm tăng tỷ lệ biến chứng thần kinh sau phẫu thuật có gây tê tủy sống. Xác định sai vị trí tiêm gây tê có thể tạo điều kiện cho chấn thương thần kinh.
Ngừng tim và t.ử v.ong
Rối loạn nhịp tim và ngừng tim là những biến chứng đáng lo ngại nhất liên quan đến gây tê tủy sống. Các bác sĩ lâm sàng phải thận trọng khi thực hiện tiêm sâu, đặc biệt ở những bệnh nhân có trọng lượng cơ thể cao, vì nó có thể dẫn đến t.ử v.ong trong giai đoạn sớm hậu phẫu.
Theo baohatinh
Những nguy cơ khi gây tê mổ đẻ
Thuốc tê, kỹ thuật chọc, gây tê tủy sống, cơ địa… có thể khiến sản phụ tụt huyết áp, mạch chậm, buồn nôn, bí tiểu, đau lưng, ngứa…
Thạc sĩ Phạm Thị Thanh Huyền, Khoa gây mê hồi sức Bệnh viện Bạch Mai, cho biết gây tê tủy sống là phương pháp vô cảm có kỹ thuật, đơn giản, an toàn, ít biến chứng hơn so với gây mê. Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong ca mổ lấy thai tại Việt Nam và trên thế giới, giúp sản phụ đỡ sợ và đau. Tại Bệnh viện Bạch Mai, gây tê tủy sống được áp dụng trong hơn 95% ca sinh mổ.
Để thực hiện, bác sĩ đưa thuốc tê vào khoang dưới nhện để ngăn chặn tạm thời sự dẫn truyền thần kinh qua tủy sống giúp sản phụ trải qua phẫu thuật mà không đau đớn. Nhờ đó, phẫu thuật viên dễ dàng mổ và lấy em bé ra khỏi bụng mẹ, hạn chế tối đa nguy hiểm cho cả mẹ và con. Sản phụ hoàn toàn tỉnh táo để đón con chào đời, có thể “da kề da” tốt cho sức khỏe của bé. Sau ca mổ, mẹ có thể cho con bú sớm hơn so với gây mê và được ăn uống, vận động sớm hơn sau mổ.
Ngoài ra, tê tủy sống còn có tác dụng giảm đau sau mổ vì sau khoảng hai tiếng, thuốc tê hết tác dụng mới gây đau. Thuốc tê ít độc chất nên không ảnh hưởng thần kinh và lượng m.áu qua tử cung và bánh nhau.
Bác sĩ đang tiến hành gây tê tủy sống cho sản phụ tại Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: Thùy An.
Tuy nhiên, gây tê tủy sống có thể dẫn đến một số tác dụng phụ liên quan đến thuốc tê, cơ địa người bệnh và kỹ thuật chọc tê.
Sản phụ có thể gặp các tác dụng không mong muốn như tụt huyết áp và mạch chậm. Nguyên nhân do thuốc tê ức chế thần kinh giao cảm gây giãn mạch, tụt huyết áp. Nếu ức chế thần kinh giao cảm chi phối tim sẽ gây nhịp chậm tim. Sản phụ có thể buồn nôn và nôn do tụt huyết áp hoặc thay đổi áp lực nội sọ, tác dụng phụ của thuốc họ morphin.
Ngoài ra, sản phụ có thể đau đầu sau 24 – 48 giờ do thoát dịch não tủy qua lỗ chọc kim hoặc bí tiểu vì tác dụng phụ của thuốc tê. Tác dụng phụ thường xuất hiện sau vài ngày kể từ khi sinh mổ, cũng có trường hợp xuất hiện ngay sau khi sinh và biến mất sau khoảng vài ngày. Thuốc gây tê có thể khiến sản phụ cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu. Tình trạng ngứa sẽ giảm dần và hết sau khoảng một đến hai ngày.
Một số biến chứng khác như đau vùng lưng nơi chọc kim gây tê do tổn thương dây chằng hoặc tổ chức da, dưới da. Các biến chứng thần kinh ít gặp hơn như tổn thương một hay nhiều rễ thần kinh gây hiện tượng rối loạn cảm giác, viêm màng não – tủy hoặc biến chứng tim mạch, gây ngừng tim thậm chí t.ử v.ong.
Sản phụ có nhau t.iền đạo thể trung tâm hoặc bán trung tâm, nhau bong non, nhau cài răng lược, dọa vỡ tử cung, sản giật, suy thai cấp, mổ lấy thai cấp cứu, có rối loạn đông m.áu, có bệnh lý n.hiễm t.rùng toàn thân, tăng áp lực nội sọ, bệnh lý tim mạch, thì không nên sử dụng phương pháp gây tê vùng.
Thùy An
Theo VNE