Khi nào nên tầm soát ung thư?

Tầm soát ung thư là một trong ba bước của dự phòng ung thư, giúp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, điều trị hợp lý, kéo dài sự sống.

Bác sĩ Nguyễn Duy Khoa, bệnh viện Ung Bướu Hà Nội cho biết tầm soát ung thư là một trong ba bước của dự phòng ung thư, trong đó: Dự phòng bước một là phòng ngừa ban đầu nhằm cố gắng loại trừ hoặc giảm tối đa sự tiếp xúc với các chất gây ung thư để hạn chế xảy ra sự khởi phát bệnh ung thư. Dự phòng bước hai là tầm soát và phát hiện sớm ung thư khi chưa có biểu hiện của bệnh, thậm chí những dấu hiệu của một tình trạng t.iền ung thư. Dự phòng bước ba là tìm biện pháp điều trị có kết quả nhằm mục đích tốt nhất đó là kéo dài số năm sống thêm của bệnh nhân.

Tại Việt Nam hầu hết mọi người chỉ quan tâm tới dự phòng bước ba, tức là khi có bệnh mới chữa, khiến điều trị bị hạn chế. Dự phòng bước một và hai mới là hai bước quan trọng trong dự phòng ung thư giúp phát hiện sớm và cơ hội chữa khỏi hoàn toàn, kéo dài sự sống.

Tuy nhiên, mỗi loại ung thư có phương pháp sàng lọc hoặc chỉ định riêng. Do đó, bạn nên đến cơ sở chuyên khoa ung bướu để thăm khám và tầm soát đúng, tránh tốn kém lại không phát hiện được bệnh.

Phụ nữ từ 40 – 54 t.uổi nên sàng lọc tuyến vú hàng năm bằng chụp X- quang. Ảnh: Health

Những lưu ý khi tầm soát một số bệnh ung thư phổ biến:

Phụ nữ từ 40 đến 54 t.uổi nên bắt đầu sàng lọc ung thư vú hàng năm bằng chụp X-quang tuyến vú. Từ 55 t.uổi nên chụp X-quang tuyến vú hai năm một lần hoặc tiếp tục duy trì một năm một lần. Sàng lọc nên được kéo dài khi phụ nữ còn đủ sức khỏe và dự kiến sẽ sống thêm 10 năm nữa hoặc lâu hơn.

Với phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư vú nên được tầm soát thêm bằng chụp MRI tuyến vú hàng năm bắt đầu từ t.uổi 30 như có đột biến BRCA; bố, mẹ, anh chị em ruột hoặc con của người mang đột biến BRCA, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú 20% đến 25% (xác định bằng BRCAPRO), có t.iền sử xạ trị vào vùng ngực từ 10 đến 30 t.uổi, hội chứng LiFraumeni, hội chứng Cowden- Bannayan Riley-Ruvalcaba.

Đối với ung thư đại tràng, trực tràng và polyp: người lớn từ 45 t.uổi trở lên có nguy cơ mắc ung thư đại tràng nên được sàng lọc bằng xét nghiệm phân. Nếu xét nghiệm phân dương tính thì cần được nội soi đại tràng. Người trưởng thành có sức khỏe tốt và tiên lượng sống thêm trên 10 năm nên sàng lọc tới 75 t.uổi.

Từ 76 đến 85 t.uổi, bác sĩ cân nhắc sàng lọc dựa trên tình trạng sức khỏe và nguyện vọng của bệnh nhân. Trên 85 t.uổi không khuyến cáo sàng lọc ung thư đại trực tràng. Các xét nghiệm dùng để sàng lọc gồm có xét nghiệm hóa miễn dịch phân hàng năm (FIT) hoặc xét nghiệm tìm m.áu trong phân hàng năm (FOBT).

Với những người có nguy cơ cao nên được kiểm tra thường xuyên hơn bằng nội soi đại tràng và bắt đầu kiểm tra ở độ t.uổi sớm hơn như bị đa polyp đại trực tràng, bố mẹ hoặc anh chị em bị ung thư đại trực tràng. Nghi ngờ hoặc đã chẩn đoán một số hội chứng liên quan đến gia đình, đặc biệt hội chứng lynch hoặc hội chứng đa polyp có tính chất gia đình, mắc viêm đại tràng trong thời gian dài. T.iền sử xạ trị vào vùng bụng hoặc khung chậu do ung thư khác trước đó.

Đối với ung thư cổ tử cung, bạn nên xét nghiệm từ năm 21 t.uổi. Từ 21 đến 29 t.uổi nên xét nghiệm Pap ba năm một lần năm. Không nên sử dụng xét nghiệm HPV ở nhóm t.uổi này trừ khi cần thiết sau khi có kết quả xét nghiệm Pap bất thường.

Phụ nữ trong độ t.uổi từ 30 đến 65 nên làm xét nghiệm Pap với xét nghiệm HPV 5 năm một lần. Phụ nữ trên 65 t.uổi đã được xét nghiệm ung thư cổ tử cung thường xuyên trong 10 năm qua với kết quả bình thường thì có thể ngừng sàng lọc. Tất cả phụ nữ đã được tiêm vắc-xin ngừa HPV vẫn nên tuân theo các khuyến nghị sàng lọc cho các nhóm t.uổi.

Sàng lọc ung thư phổi hàng năm bằng chụp CT liều thấp (LDCT) cho một số người có nguy cơ cao mắc ung thư phổi như trong độ t.uổi từ 55 đến 74 và có sức khỏe bình thường, đang hút thuốc hoặc đã bỏ hút thuốc trong 15 năm. Có t.iền sử hút thuốc từ 30 bao – năm trở lên (số bao – năm = số bao hút trong một ngày x số năm hút thuốc).

Ung thư tuyến t.iền liệt nên bắt đầu ở t.uổi 50. Đàn ông có cha hoặc anh trai bị ung thư tuyến t.iền liệt trước 65 t.uổi, thì nên được tầm soát ung thư tuyến t.iền liệt từ 45 t.uổi. Với đàn ông nguy cơ cao hơn khi nhiều thành viên trong gia đình chẩn đoán ung thư tuyến t.iền liệt trước t.uổi 65 thì nên được tầm soát ung thư tuyến t.iền liệt bắt đầu từ t.uổi 40.

Thùy An

Theo VNE

Vì không biết khi nào nên tầm soát ung thư, nhiều người mắc bệnh đã quá nặng

Tỷ lệ mắc ung thư hiện có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt ở các nước đang phát triển như nước ta nên việc khám tầm soát, phát hiện sớm ung thư ngày càng được quan tâm. Đáng buồn không biết khi nào nên tầm soát ung thư, nhiều người mắc bệnh đã quá nặng.

Điều trị khó khăn khi đã phát hiện muộn

Các chuyên gia y tế cho rằng, sàng lọc là quá trình áp dụng một biện pháp kĩ thuật hay xét nghiệm để phát hiện sớm một bệnh ở thời kì t.iền lâm sàng mà bệnh đó chưa có biểu hiện những triệu chứng lâm sàng.

Tầm soát ung thư là một trong ba bước của dự phòng ung thư. Theo đó, dự phòng bước 1 là phòng ngừa ban đầu nhằm cố gắng loại trừ hoặc giảm tối đa sự tiếp xúc với các chất gây ung thư để hạn chế xảy ra sự khởi phát bệnh ung thư.

Dự phòng bước 2: Là tầm soát và phát hiện sớm ung thư khi chưa có biểu hiện của bệnh, thậm chí những dấu hiệu của một tình trạng t.iền ung thư.

Dự phòng bước 3: Là tìm biện pháp điều trị có kết quả nhằm mục đích tốt nhất, kéo dài số năm sống thêm cho người bệnh.

Phát hiện sớm ung thư là điều rất quan trọng quyết định kết quả việc điều trị bệnh. Ảnh TL

Ông Nguyễn Minh Tuấn – chuyên gia Đề án 818 cho biết, dự phòng bước 1 và dự phòng bước 2 mới là hai bước quan trọng trong dự phòng ung thư. Nhiều bệnh ung thư khi được phát hiện sớm có cơ hội chữa khỏi hoàn toàn và kéo dài sự sống. Trong đó, ung thư vú và ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư hay gặp ở phụ nữ nếu phát hiện sớm, tỷ lệ chữa khỏi hơn 90%.

Thế nhưng, ở nước ta đa phần mọi người chỉ quan tâm đến dự phòng bước 3, tức là khi có bệnh mới tìm kiếm các phương pháp điều trị bệnh. Khi bệnh đã ở giai đoạn này gần như bệnh không còn ở giai đoạn sớm. Kết quả điều trị bệnh sẽ hạn chế và dễ có biến chứng.

Khi nào phụ nữ cần tầm soát ung thư vú, ung thư cổ tử cung?

Theo khuyến cáo của Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ về sàng lọc phát hiện sớm ung thư:

1. Ung thư vú

Nữ bắt đầu từ t.uổi 25 nên nghĩ đến sàng lọc ung thư vú, tập trung nhất là hơn 40 t.uổi hàng năm nên sàng lọc bằng chụp X quang tuyến vú. Phụ nữ từ 55 t.uổi nên chụp X quang tuyến vú hai năm một lần hoặc tiếp tục duy trì một năm một lần. Sàng lọc nên được kéo dài khi phụ nữ còn đủ sức khỏe và dự kiến sẽ sống thêm 10 năm nữa hoặc lâu hơn.

Với phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư vú nên được tầm soát thêm bằng chụp MRI tuyến vú hàng năm bắt đầu từ t.uổi 30 như: có đột biến BRCA; bố, mẹ, anh chị em ruột hoặc con của người mang đột biến BRCA, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú 20% đến 25% (xác định bằng BRCAPRO), có t.iền sử xạ trị vào vùng ngực từ 10 đến 30 t.uổi, hội chứng Li-Fraumeni, hội chứng Cowden- Bannayan Riley-Ruvalcaba.

2. Ung thư cổ tử cung

Phụ nữ trong độ t.uổi từ 21 đến 29 nên làm xét nghiệm Pap mỗi 3 năm. Không nên sử dụng xét nghiệm HPV ở nhóm t.uổi này trừ khi cần thiết sau khi có kết quả xét nghiệm Pap bất thường.

Phụ nữ trong độ t.uổi từ 30 đến 65 nên làm xét nghiệm Pap cộng với xét nghiệm HPV được thực hiện 5 năm một lần. Nhưng cứ sau 3 năm thì bạn nên làm xét nghiệm Pap một lần.

Phụ nữ trên 65 t.uổi đã được xét nghiệm ung thư cổ tử cung thường xuyên trong 10 năm qua với kết quả bình thường thì có thể ngừng sàng lọc.

Gia Minh

Theo giadinh.net

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *