Theo Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, từ đầu năm 2024 đến nay nước ta đã ghi nhận 78 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, rubella tại khu vực phía Bắc, trong đó có 10 trường hợp rubella tại 7 tỉnh, thành phố.
Cách nào giúp nhận biết sớm và phòng ngừa mắc rubella?
1. Nguyên nhân gây bệnh rubella
Virus rubella được xem là virus Paramyxo trên cơ sở dịch tễ học, do cách truyền bệnh qua niêm mạc đường hô hấp. Virus rubella chỉ có một type kháng nguyên ngưng kết hồng cầu nằm trong các gai bề mặt.
Ở người nhạy cảm:
Bị lây truyền từ những giọt nước bọt có chứa virus rubella vào đường mũi họng, nhân bản ở đường hô hấp và phân bố theo đường m.áu. Viremia (virus huyết) được phát hiện kéo dài trong 8 ngày trước đó và tồn tại 2 ngày sau phát ban. Sự đào thải virus qua họng miệng tồn tại 8 ngày sau khi khởi phát các triệu chứng.
Rubella bẩm sinh:
Do sự lây truyền qua nhau thai từ người mẹ bị nhiễm sang thai nhi. Virus có thể tồn tại ở bào thai trong khi mang thai và có thể đào thải trong vòng 6 – 31 tháng sau sinh.
Rubella là một tác nhân gây dị tật bẩm sinh. Theo nhiều nghiên cứu: 80% bé bị rubella bẩm sinh nếu mẹ bị nhiễm trong 12 tuần lễ đầu mang thai. Khoảng 54% bé bị rubella bẩm sinh nếu mẹ bị nhiễm lúc thai 13 -14 tuần. Khoảng 25% bé bị rubella bẩm sinh lúc thai ở cuối tam cá nguyệt thứ 2 (tuần thứ 13 đến 26).
Biểu hiện tổn thương do Rubella.
2. Nhận biết sớm rubella
Có hai dạng: bệnh rubella mắc phải và hội chứng rubella bẩm sinh.
Đối với bệnh rubella mắc phải
Virus nhiễm vào người qua niêm mạc đường hô hấp trên, nhân lên ở biểu mô hô hấp và biểu mô hạch cổ. Thời gian ủ bệnh từ 16-18 ngày, có biểu hiện mệt mỏi, sốt nhẹ và phát ban dạng sởi cùng lúc. Đặc biệt có hạch dưới chẩm và sau tai. Ban phát ít khi kéo dài hơn 3 ngày.
Người lớn, đặc biệt là phụ nữ thường bị đau cơ thoáng qua và viêm khớp do phức hợp kháng nguyên – kháng thể. Biến chứng xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm não ít gặp.
Hội chứng rubella bẩm sinh (CRS)
Là hậu quả của tình trạng nhiễm rubella từ trong bụng mẹ được truyền qua nhau thai. Trẻ sơ sinh khi đẻ ra đã có ban hoặc trong vòng 48 giờ sau sinh, xuất hiện gan lách to, vàng da. Thể xuất huyết do giảm tiểu cầu chiếm khoảng 1/3000 trường hợp. Có thể c.hảy m.áu cam, xuất huyết tiêu hóa, c.hảy m.áu rốn ở trẻ sơ sinh.
Biện pháp hữu hiệu nhất là tiêm phòng vaccine rubella để phòng bệnh.
Diễn tiến bệnh rubella: 3 giai đoạn
– Thời kỳ ủ bệnh: 12 – 23 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn lây. Người bệnh đã nhiễm virus, chưa có biểu hiện bệnh.
– Thời kỳ phát bệnh: có 3 biểu hiện chính: sốt, phát ban, nổi hạch.
Sốt nhẹ 38 độ C, nhức đầu, mệt mỏi, đau họng, chảy mũi trong, đôi khi mắt bị đỏ, thường xuất hiện 1- 4 ngày. Sau khi phát ban thì sốt giảm.
Bệnh nhân nổi hạch ở vùng xương chẩm, bẹn, cổ, sờ hơi đau. Hạch thường nổi trước phát ban, tồn tại vài ngày sau khi ban bay hết.
Phát ban: Đây là dấu hiệu làm người ta để ý tới. ban mọc lúc đầu ở trên đầu, mặt, rồi mọc khắp toàn thân, thường không tuần tự như sởi. Nốt ban có hình tròn hay bầu dục, đường kính khoảng 1 – 2 mm, các nốt có thể hợp thành từng mảng hay đứng riêng lẻ. Trong vòng 24 giờ ban mọc khắp người.
Đau khớp: Bệnh lui thường hết sốt, ban bay nhanh không theo quy luật, không để lại dấu vết trên da, hạch trở về bình thường muộn hơn thường sau 1 tuần.
– Thời kỳ lui bệnh: Triệu chứng kéo dài 3 – 4 ngày rồi tự hết. Đau khớp có thể kéo dài lâu hơn.
3. Phòng ngừa bệnh rubella
Biện pháp hữu hiệu nhất là tiêm phòng vaccine. Đối với t.rẻ e.m tiêm phòng vaccine một mũi sau 15 tháng t.uổi, tiêm mũi 2 cách mũi một khoảng 6-10 tháng hoặc tiêm vào lúc trẻ được 4-6 t.uổi.
Phụ nữ đang ở lứa t.uổi sinh đẻ, là những phụ nữ chuẩn bị hoặc muốn có con thì thời gian tiêm là trước khi dự kiến có thai khoảng 3-4 tháng.
Chú ý: Khi đã mang thai thì chống chỉ định tiêm vaccine ngừa rubella, vì đây là loại vaccine sống giảm độc lực có khả năng truyền bệnh cho thai nhi.
Trong trường hợp đã có thai mà chưa được tiêm phòng rubella thì nên cách ly với người mắc rubella hoặc nghi mắc rubella, nhất là trong 16 tuần đầu của thai kỳ. Nếu phải đi công tác hoặc du lịch, nên hoãn chuyến đi tới những địa điểm đang có dịch rubella. Ngoài ra nên tăng cường giữ sức khỏe chung bằng cách ăn uống đủ dinh dưỡng, mặc ấm và sống trong môi trường an toàn, lành mạnh.
Nếu phụ nữ có thai không may đã mắc hoặc đã tiếp xúc với người mắc rubella, nên đi khám ngay lập tức tại chuyên khoa truyền nhiễm và chuyên khoa phụ sản. Việc đến các chuyên khoa này sẽ được bác sĩ khám, tư vấn để quyết định giữ thai hay phá thai.
Dịch sởi – rubella đang tăng
Bộ Y tế yêu cầu duy trì công tác tiêm vắc-xin sởi và vắc xin sởi – rubella cho trẻ, bảo đảm không bỏ sót đối tượng.
Ngày 28/3, thông tin từ Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Hà Nội cho hay, trên địa bàn Thành phố vừa ghi nhận b.é g.ái 7 t.uổi (ở huyện Đan Phượng) mắc rubella. Trước đó, b.é g.ái đã được tiêm chủng 2 mũi vắc-xin phòng bệnh này.
Bộ Y tế yêu cầu duy trì công tác tiêm vắc-xin sởi và vắc xin sởi – rubella cho trẻ, bảo đảm không bỏ sót đối tượng.
Trước tình hình nêu trên, Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương vừa có Công văn số 397/VSDTTƯ-BTN gửi sở y tế, trung tâm kiểm soát bệnh tật 28 tỉnh, thành phố về việc tăng cường giám sát bệnh sởi, rubella.
Theo Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương, từ đầu năm 2024 đến nay đã ghi nhận 78 trường hợp sốt phát ban nghi sởi, rubella tại khu vực phía Bắc. Trong đó có 12 trường hợp sởi xác định tại phòng thí nghiệm của 4 tỉnh, thành phố và 10 trường hợp rubella tại 7 tỉnh, thành phố. Đặc biệt, ghi nhận 1 chùm ca bệnh sởi tập trung tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ở nhóm trẻ dưới 10 t.uổi.
Để chủ động phòng, chống dịch sởi, rubella, Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương đề nghị, trung tâm kiểm soát bệnh tật các tỉnh, thành phố tăng cường công tác giám sát các trường hợp nghi sởi, rubella.
Đồng thời điều tra, lấy mẫu xét nghiệm hoặc gửi về Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương xét nghiệm. Đối với các tỉnh, thành phố tự xét nghiệm, cần gửi kết quả về Văn phòng Tiêm chủng mở rộng miền Bắc.
Bên cạnh đó, Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương cũng nhấn mạnh, duy trì công tác tiêm chủng vắc xin sởi cho trẻ từ 9-12 tháng và vắc xin sởi – rubella cho trẻ từ 18-24 tháng, bảo đảm không bỏ sót đối tượng.
Nếu có dịch xảy ra trên địa bàn, cần nhanh chóng điều tra, khoanh vùng, lấy mẫu và thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định.
Theo các chuyên gia y tế, bệnh sởi lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết mũi họng của bệnh nhân khi người bệnh ho, hắt hơi.
Bệnh sởi làm suy yếu sức đề kháng của cơ thể cho nên thường kèm theo những biến chứng nặng như viêm phổi, viêm tai, tiêu chảy, viêm não… Những bệnh này khi mắc cùng bệnh sởi thường có diễn biến rất nặng.
Theo Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế, bệnh rubella rất nguy hiểm ở phụ nữ có thai, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ do có thể gây sảy thai, thai c.hết lưu.
Đặc biệt, gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi (bệnh tim, mù, đục thủy tinh thể, điếc và chậm phát triển tinh thần), thường gọi là hội chứng rubella bẩm sinh. Hội chứng này có thể gặp ở 90% trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm rubella trong 3 tháng đầu mang thai.
Bệnh rubella có tính lây truyền cao và có thể gây thành dịch lớn. Trên lâm sàng, bệnh khó phân biệt với các bệnh sốt phát ban khác, nhất là với sởi và có tới 50% trường hợp bệnh biểu hiện lâm sàng không điển hình.
Thời kỳ ủ bệnh kéo dài 14-21 ngày, trung bình 18 ngày. Thời kỳ lây truyền kéo dài từ 7 ngày trước cho tới 7 ngày sau phát ban. T.rẻ e.m mắc hội chứng rubella bẩm sinh có thể đào thải vi rút đến 1 năm sau khi sinh.
Theo các chuyên gia y tế, những người chưa có miễn dịch đều có thể bị mắc bệnh. Người sau khi mắc bệnh có miễn dịch bền vững. Những trường hợp đã tiêm vắc-xin sẽ sinh ra miễn dịch đặc hiệu bảo vệ cơ thể không bị mắc bệnh, số ít còn lại không may mắc bệnh thì bệnh sẽ nhẹ hơn, hạn chế di chứng và t.ử v.ong.
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về tiêm vắc-xin rubella, sử dụng vắc-xin dạng đơn hoặc dạng phối hợp (sởi-rubella hoặc sởi-quai bị-rubella).
Với t.rẻ e.m, tiêm vắc-xin cho trẻ từ 9 tháng t.uổi trở lên và nhắc lại khi trẻ 18 tháng t.uổi. Với người lớn, tiêm vắc-xin cho những người chưa tiêm phòng hoặc chưa có miễn dịch, đặc biệt là phụ nữ ở t.uổi sinh đẻ. Không tiêm phòng vắc-xin rubella cho phụ nữ đang mang thai. Chỉ nên có thai sau khi tiêm phòng ít nhất 1 tháng.