Cách tập luyện và massage cho người bệnh bỏng

Bỏng (hay phỏng) là một dạng tổn thương bề mặt cơ thể nông hoặc sâu, không chỉ khu trú tại chỗ mà còn có thể gây ra rối loạn toàn thân.

Các bài tập và massage giúp người bệnh giảm đau, giảm ngứa và nhanh lành vết thương.

Bỏng có thể do một số nguyên nhân sau:

– Bỏng do sức nóng: Sức nóng khô (củi gỗ, xăng dầu, bình khí gas, oxy… bị nổ, kim loại nung), sức nóng ướt (nước sôi, dầu mỡ, nhựa đường), độ lạnh (nitơ lỏng).

– Bỏng do điện: Sét đ.ánh, điện giật.

– Bỏng do hóa chất: Acid, kiềm, muối kim loại nặng.

– Bỏng do bức xạ: Tia hồng ngoại, tử ngoại, tia X, tia laser, tia gamma, hạt cơ bản beta.

Biểu hiện của bỏng

Tùy thuộc vào mức độ nông sâu của tổn thương bỏng mà người bệnh có những biểu hiện tương ứng.

– Bỏng nông: Vết bỏng màu đỏ tái, lan rộng, đau và căng khi ấn nhẹ, không có bóng nước.

Bỏng dày một phần bề mặt: Vết bỏng đau và căng, bóng nước nền màu hồng, tiết dịch, không phát triển trong vòng 24 giờ.

– Bỏng dày một phần sâu: Vết bỏng màu trắng, đỏ hoặc đốm cả đỏ và trắng, không tái và ít đau và căng hơn vết bỏng ở bề mặt, bóng nước có thể tiến triển.

– Bỏng dày toàn bộ: Vết bỏng có màu trắng hoặc nâu, da có thể trông giống như da thuộc, các sợi lông dễ dàng bị kéo ra khỏi nang lông, mất cảm giác tại vùng bị bỏng.

1. Vai trò của tập luyện và massage với người bệnh bỏng

Bên cạnh các liệu pháp trị liệu thông thường, việc kết hợp các phương pháp không dùng thuốc như tập luyện và massage đã được chứng minh mang lại nhiều lợi ích cho người bị bỏng, góp phần đẩy nhanh quá trình hồi phục một cách hiệu quả.

– Ngăn ngừa tình trạng co rút và cứng khớp: Tập thể dục thường xuyên giúp ngăn ngừa tình trạng co rút và cứng khớp, tăng cường sức mạnh và sức bền của cơ, cải thiện sức khỏe tim mạch, giúp chống lại tình trạng suy nhược tiềm ẩn trong giai đoạn phục hồi.

– Kiểm soát cơn đau: Ngoài ra, hoạt động thể chất có thể kích thích cơ thể giải phóng endorphin, hỗ trợ kiểm soát cơn đau liên quan đến vết bỏng, giảm căng thẳng, lo lắng và trầm cảm.

– Thúc đẩy quá trình lành vết thương: Massage làm tăng lưu lượng m.áu đến vùng bị tổn thương, kích thích sản xuất collagen không chỉ giúp giảm đau và sưng tấy mà còn thúc đẩy quá trình lành vết thương. Massage cũng làm cho cơ bắp thư giãn, giảm căng thẳng tâm lý, cải thiện sức khỏe tinh thần.

Massage, xoa bóp giúp giảm đau cho người bệnh bỏng.

2. Bài tập tốt cho người bệnh bỏng

Tập thở

Thở sâu bằng bụng

Giữ hơi thở trong vài giây rồi từ từ thở ra

Lặp lại 10 lần, mỗi lần 3 hiệp

– Tập ho

Ho nhẹ nhàng để loại bỏ đàm dãi.

Dùng tay ấn nhẹ vào ngực khi ho.

Lặp lại 5 lần, mỗi lần 3 hiệp.

Người bệnh bỏng tập ho nhằm cải thiện chức năng hô hấp.

Tập vận động các khớp

Gập và duỗi các khớp tay, chân

Xoay cổ tay, cổ chân

Nâng và hạ cánh tay, chân

Lặp lại mỗi động tác 10 lần, mỗi lần 3 hiệp.

– Tập các bài tập đẳng cự (isometric)

Giữ cơ bắp căng trong vài giây mà không cần di chuyển khớp

Thực hiện các bài tập isometric cho các cơ bắp ở tay, chân, vai, lưng

Lặp lại mỗi động tác 10 lần, mỗi lần 3 hiệp

– Tập đi bộ

Bắt đầu bằng việc đi bộ một vài bước mỗi lần.

Tăng dần số bước đi mỗi ngày.

Sử dụng gậy hoặc nạng nếu cần thiết.

Người bệnh bỏng cần tập đi lại một cách từ từ, có sự hỗ trợ nếu cần thiết.

3. Khi nào người bệnh bỏng có thể tập luyện?

– Người bệnh nên bắt đầu tập luyện phục hồi càng sớm càng tốt khi sức khỏe đã ổn định, không có dấu hiệu n.hiễm t.rùng và vết bỏng đã lành da.

– Thời điểm tập tốt nhất trong ngày là vào buổi sáng sau khi ngủ dậy, đây là thời điểm cơ thể đã được nghỉ ngơi và có đủ năng lượng để tập luyện. Tuy nhiên, việc tập luyện vào buổi tối có thể mang lại giấc ngủ ngon hơn cho người bệnh.

– Các bài tập cần được thực hiện nhẹ nhàng và tăng dần cường độ theo thời gian.

– Người bệnh cần dừng tập ngay nếu cảm thấy đau hoặc khó chịu, tránh va chạm mạnh vào vùng da bị bỏng.

4. Cách massage tốt nhất cho người bệnh

– Vuốt: Dùng lòng bàn tay vuốt nhẹ nhàng theo chiều dài của cơ.

– Nhấn: Dùng ngón tay ấn nhẹ vào các huyệt đạo.

– Xoa: Dùng ngón tay xoay tròn trên da ở vùng da bị tổn thương hoặc vùng lân cận để tăng cường khả năng lưu thông m.áu, giảm đau, giảm ngứa.

– Rung: Dùng ngón tay rung nhẹ trên da cũng ở phần da cần tác động, kích thích vết thương nhanh lành.

Lưu ý

– Chỉ massage sau khi vết bỏng đã lành da hoàn toàn. Massage khi vết bỏng chưa lành có thể gây n.hiễm t.rùng.

– Chỉ massage các khu vực xung quanh vết bỏng, tránh tác động trực tiếp lên vết bỏng. Không massage quá mạnh vì có thể làm tổn thương da non.

– Nên sử dụng các loại dầu massage có thành phần tự nhiên, không gây kích ứng da.

Bỏng: Nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh

Bỏng là một cấp cứu thường gặp trong cuộc sống đời thường. Theo thống kê, đến 80% tổng số bệnh nhân là bỏng nông trên diện hẹp, chiếm dưới 20% diện tích da của cơ thể.

1. Nguyên nhân gây bỏng

– Bỏng do nhiệt:

Thường gặp nhất, khoảng 90% các tổn thương bỏng, đại đa số là bỏng do nhiệt độ cao, gồm 2 nhóm:

Bỏng do nhiệt độ cao: Bỏng do sức nhiệt khô: bỏng do lửa cháy nhiệt độ cao như củi gỗ cháy, xăng cháy, hóa chất cháy (NH4NO3, C2H2,..); bỏng do tia lửa điện (3.200- 4.800 độ C); bỏng do vật nóng như kim loại nóng chảy (1.800 – 2.000 độ C); bỏng do các chất nóng dính như nhựa đường nóng chảy… thường gây bỏng sâu và nặng.

Bỏng do sức nhiệt ướt: Nhiệt độ gây bỏng thường không cao, có thể do nước sôi, thức ăn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi nước từ nồi áp suất.

Cơ chế bỏng của sức nhiệt khi tế bào bị nóng do nhiệt sẽ xuất hiện các tổn thương tùy thuộc nhiệt độ và thời gian tiếp xúc.

– Bỏng do luồng điện:

Mức độ tổn thương bỏng tùy thuộc vào điện thế, điểm vào và điểm ra của luồng điện, thời gian bị, khu vực cơ thể chịu ảnh hưởng của luồng điện.

Tổn thương tại chỗ thường sâu tới gân cơ, xương khớp, mạch m.áu, thần kinh..

Tỉ lệ bệnh nhân t.ử v.ong khá cao. Bỏng do điện có 3 cơ chế: bỏng do luồng điện, bỏng do tia lửa điện, bỏng vừa do luồng điện vừa do tia lửa điện.

– Bỏng do hóa chất:

Bao gồm các chất oxy hóa, chất khử oxy, chất ăn mòn, chất gây độc cho nguyên sinh chất, chất làm khô, chất làm rộp da, các chất kiềm mạnh.

Mức độ tổn thương bỏng phụ thuộc loại hóa chất, nồng độ và thời gian tiếp xúc của hóa chất đó trên da và niêm mạc. Bỏng do axít thường có độ rộng giới hạn, nhưng tổn thương sâu. Bỏng kiềm thường sâu, tiếp tục tiến triển, và trầm trọng hơn bỏng axít.

Bỏng sâu dễ để lại sẹo.

– Bỏng do bức xạ:

Bỏng do tia hồng ngoại.

Bỏng do tia Rôngen, tia laser.

Bỏng do tia gamma, hạt cơ bản bêta.

Bỏng do nắng mặt trời cũng là loại bỏng do bức xạ ánh sáng.

Cơ chế gây bỏng: do nhiệt lượng của tia xạ, do phản ứng quang hóa học, làm khô gây bốc hơi nước, do ion hóa gây bức xạ xuyên.

2. Dấu hiệu và các mức độ của bỏng

Các triệu chứng bỏng gồm:

Theo độ nông sâu

– Bỏng nông: Là bỏng nhẹ, dễ khỏi và khi khỏi không để lại sẹo.

– Bỏng sâu: Là loại bỏng nặng và rất nặng, tác nhân gây bỏng phá hủy lớp tế bào đáy, để lại sẹo dúm dó, đa số cần phải lại vá da.

– Bỏng trung gian: Là loại bỏng nằm giữa giới hạn bỏng nông và bỏng sâu. Bỏng lan tới một phần của lớp tế bào đáy (lớp nông, phần uốn lượn lên xuống). Bỏng loại này tiến triển tốt, nhưng cũng có thể nặng lên và thành bỏng sâu. Bỏng trung gian thường gặp bỏng nước sôi chỗ có quần áo…

Ngoài ra còn phân loại bỏng theo:

– Bỏng độ 1: Là bỏng ở lớp sừng. Chỗ da bị bỏng đỏ, rát, 2 – 3 ngày thì khỏi và không để lại sẹo. Bỏng độ 1 hay gặp là bỏng nắng, bỏng nước sôi chỗ không có quần áo.

– Bỏng độ 2: Thương tổn lớp biểu bì. Trên nền da đỏ, xuất hiện những nốt phỏng nước chứa dịch trong. Vì chưa tới lớp tế bào đáy nên khi khỏi không để lại sẹo, khỏi sau 10 – 14 ngày. Bỏng độ 2 hay gặp là bỏng nước sôi chỗ có quần áo…

– Bỏng độ 3: Lớp tế bào đáy bị phá hủy, bỏng ăn lan tới trung bì, gây hoại tử da diện rộng. Vì mất lớp tế bào sinh sản, da không được bảo vệ, nên bỏng loại này hầu hết bị nhiễm khuẩn. Bỏng độ 3 thường gặp bỏng do xăng, acid, bỏng điện…

– Bỏng độ 4: Tác nhân gây bỏng phá hủy hết da, bỏng ăn tới tận cơ, xương, cả một vùng của chi bị cháy đen. Thường gặp do điện cao thế, sét đ.ánh, cháy nhà (trong các thảm họa cháy nhà cao tầng), cháy ô tô khách…

Cần phân ra hai loại: bỏng nhẹ (có thể điều trị ngoại trú) và bỏng cần nhập viện, để kịp quyết định hướng xử trí tiếp. Người thầy thuốc đầu tiên khám cho bệnh nhân bỏng thường dễ đ.ánh giá độ sâu của bỏng.

Chỉ định điều trị nội trú: áp dụng công thức 5-10-20 của Hiệp hội Bỏng Hoa kỳ:

Diện tích bỏng> 20%.

Diện tích bỏng> 10% đối với bệnh nhân già hoặc t.rẻ e.m.

Diện tích bỏng sâu> 5%.

Ngoài ra, bắt buộc nhập viện không cần tính đến diện tích bỏng đối với các trường hợp sau:

Bỏng bàn tay, bàn chân, mặt, tầng sinh môn.

B.ỏng m.ắt hoặc tai.

Nghi ngờ tổn thương do hít.

Bỏng điện và bỏng hóa chất.

Bệnh nhân suy kiệt.

Bệnh nhân có tổn thương khác kèm theo.

3. Bỏng có lây không?

Bỏng là một tai nạn thường gặp không phải là bệnh lây nhiễm nên không thể lây.

4. Đề phòng bỏng

Cần cẩn thận khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Bỏng là một trong những tai nạn thương tích thường gặp, dù nặng hay nhẹ đều để lại di chứng. Mọi người có thể chủ động phòng ngừa bỏng theo những cách sau:

Dùng kem chống nắng mỗi khi đi ra ngoài.

Điều chỉnh máy nước nóng trong nhà phù hợp với nhiệt độ.

Trang bị dụng cụ bảo hộ khi tiếp xúc với hóa chất.

Không để t.rẻ e.m, người lớn t.uổi gần các vật có thể gây bỏng.

Trang bị bình chữa cháy tại nhà, cơ quan, trường học…

Che chắn các ổ cắm điện.

Kiểm tra nhiệt độ nước trước khi uống, tắm hoặc rửa tay…

Loại bỏ những thiết bị điện hư hỏng.

Thiết kế lối thoát hiểm cho nhà ở, trường học, văn phòng,… để kịp thời thoát nạn khi có sự cố xảy ra.

5. Cách điều trị bỏng

Điều trị bỏng phụ thuộc vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của vết thương. Bỏng nhẹ có thể điều trị tại nhà. Với các vết bỏng sâu, nghiêm trọng, sau khi sơ cứu ban đầu, người bệnh cần đến bệnh viện để điều trị theo hướng dẫn của bác sĩ.

Đối với bỏng nhẹ để cho lành tự nhiên; nhưng cũng cần được điều trị và theo dõi một cách hợp lý.

Đối với bỏng da sâu tuy còn khả năng tự lành, nhưng hay để lại những sẹo lớn; nhất là đối với t.rẻ e.m và người trẻ t.uổi. Bởi thế, nếu có điều kiện và tổn thương ở những vùng quan trọng về mặt chức năng và thẩm mỹ, có thể áp dụng phương pháp hớt bỏ những phần hoại tử và việc đóng kín vết thương ngay bằng ghép da.

Những trường hợp không mổ, hoặc trên bề mặt vết bỏng lớn có nhiều độ nông – sâu khác nhau hoặc bệnh nhân già yếu hay có bệnh đi kèm, thì cần được điều trị bằng thuốc mỡ kháng khuẩn. Những bệnh nhân này sẽ được thay băng, làm sạch vết thương hàng ngày bằng vòi nước vô trùng, lấy đi những chất cặn bã của thuốc mỡ, của dịch xuất tiết và những phần da hoại tử đã bong ra. Sau đó được bôi một lớp thuốc có kháng sinh thích hợp.

Ngoài ra, bệnh nhân có thể phải dùng thuốc kháng sinh, giảm đau, kháng viêm… nhằm tránh biến chứng.

Với những vết bỏng ở độ sâu hơn nữa tổn thương tới tận lớp cơ, mạch m.áu, thần kinh, xương khớp…, thì tùy từ trường hợp cụ thể các thầy thuốc sẽ phải cân nhắc để đưa ra những giải pháp điều trị thích hợp (chuyển vạt da hoặc vạt da cân cơ tại chỗ; chuyển vạt da và tổ chức với cuống mạch m.áu từ nơi khác đến bằng vi phẫu; hoặc phải cắt đoạn chi…).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *