Cá không chỉ giàu protein, vitamin thiết yếu và các nguyên tố vi lượng mà còn chứa nhiều axit không bão hòa, chất béo. Tuy nhiên với một số người đặc biệt, nhất là đang mắc một số bệnh thì không nên ăn cá.
Ảnh minh họa: Internet
Đặc biệt, ăn cá còn giúp ngăn chặn sự lắng đọng cholesterol trong thành mạch m.áu, phòng chống và điều trị các bệnh về tim. Riêng với t.rẻ e.m và người cao t.uổi, ăn cá có thể tăng cường trí nhớ, cải thiện chức năng não và ngăn ngừa chứng bệnh alzheimer. Cá là nguồn thực phẩm bổ dưỡng, thơm ngon, và có giá trị dinh dưỡng cao so với các loại thịt và là nguồn thực phẩm cung cấp nhiều chất dinh dưỡng nếu biết cách ăn hợp lý
Tuy nhiên không phải ai cũng có thể ăn nhiều cá. Với những người dưới đây, nên chú ý hơn khi chọn thực phẩm này trong các bữa ăn hàng ngày.
Người mắc bệnh gout
Cá rất giàu purine, khi vào cơ thể nó sẽ phân giải thành axit uric. Do vậy, nếu ăn càng nhiều cá sẽ càng làm tăng nguy cơ bị gút hoặc làm cho bệnh nặng thêm nếu bạn đang mắc bệnh.
Không nên ăn cá khi bị dị ứng
Trong trường hợp bạn đang bị dị ứng hoặc dị ứng với hải sản thì nên kiêng ăn cá. Bởi cá cơ thể làm cho tình trạng dị ứng (bao gồm các hiện tượng mẩn đỏ, ngứa, nôn mửa, tim đ.ập nhanh…) ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Nguyên nhân là do cá có chứa histamine. Chất này đi vào cơ thể và tham gia vào quá trình trao đổi chất, tuần hoàn m.áu gây ra hiện tượng dị ứng với histamine.
Người đang dùng thuốc
Khi bạn ăn cá, bạn không thể kết hợp với một số loại thuốc, chẳng hạn như chlorpheniramine và các chất đối kháng thụ thể histamine khác.
Tôm và cá chứa nhiều chất histidine, dễ chuyển đổi thành histamine trong cơ thể. Nếu có, nó sẽ ức chế sự phân giải của histamine, điều này sẽ khiến một lượng lớn histamine tích tụ lại trong cơ thể, gây ra các triệu chứng như đ.ánh trống ngực, khó chịu ở vùng tim và chóng mặt.
Không nên ăn cá đang điều trị bệnh xơ gan
Những người đang điều trị bệnh xơ gan với lượng tiểu cầu thông, các yếu tố chức năng đông m.áu suy giản nên tránh ăn cá, đặc biệt là các loại cá biển. Bởi cá biển có chứa nhiều chất chống đông m.áu, nguy cơ nhiễm thủy ngân cao, làm tăng gánh nặng cho gan. Trường hợp bị ra m.áu hoặc xuất huyết trong sẽ rất khó cầm và làm nguy hiểm tới tính mạng.
Không nên ăn cá khi đang đói bụng
Khi đói, bạn nên tránh ăn cá. Nguyên nhân là do ăn cá vào thời điểm này sẽ dễ làm bùng phát bệnh gout. Cá có chứa chất purine làm cho axit uric trong m.áu tăng lên gây tổn thương mô. Đây chính là nguyên nhân gây ra bệnh gout.
Không nên ăn cá khi đang bị ho
Khi cơ thể không được khỏe, đặc biệt là khi bị ho lâu ngày, bạn nên hạn chế ăn cá, nhất là cá biển. Nguyên nhân là do cá biển có chứa nhiều histamine. Khi chất này đi vào cơ thể, nó sẽ tham gia vào tuần hoàn m.áu và quá trình chuyển hóa chất, gây ra dị ứng đồng thời làm cho tình trạng bệnh càng thêm nặng.
Người bị rối loạn tiêu hóa
Rối loạn tiêu hóa gây ra những cảm giác khó chịu, đau bụng và sốt. Không những thế, người bị biếng ăn, bụng đầy hơi làm cho cuộc sống hằng ngày gặp nhiều phiền toái.
Những người rối loạn tiêu hóa ăn cá nhiều sẽ khiến bệnh không thuyên giảm, ngược lại bệnh sẽ trở nên trầm trọng hơn do cá chứa nhiều đạm.
Người bị rối loạn tiêu hóa nên uống nhiều nước, khoảng 2,5-3 lít nước mỗi ngày, chia 6-8 lần trong ngày, nên uống vào buổi sáng sớm lúc đói bụng. Cũng có thể thay thế bằng nước khoáng có nhiều kali và magie thì càng tốt.
Ưu tiên các loại thịt trắng như thịt gia cầm, hạn chế ăn cá.
Người tổn thương gan, thận
Cá chứa protein chất lượng cao, protein chúng ta tiêu thụ chủ yếu được chuyển hóa ở gan và thận. Đối với những người bị tổn thương chức năng gan và thận nghiêm trọng, nếu protein được tiêu thụ quá mức, nó sẽ làm tăng gánh nặng cho gan và thận. Đặc biệt là các loại cá biển như: Cá trích, cá ngừ, á mòi… sẽ khiến tình trạng bệnh xấu đi và có chiều hướng trầm trọng hơn.
Người mắc bệnh xương khớp
Cá có nhiều dinh dưỡng, chứa nhiều protein, sắt, kẽm….Nhưng ăn quá nhiều sẽ bị thừa đạm, đau khớp, sưng tấy….
Bệnh nhân vô sinh
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người đàn ông bị suy giảm khả năng sinh sản một phần nguyên nhân do lượng thủy ngân tích trong cơ thể cao hơn. Có nhiều loại cá chứa lượng thủy ngân cao như cá kiếm, cá thu to, cá ngừ… Khi thủy ngân xâm nhập vào cơ thể, kết hợp với các tế bào hồng cầu trong m.áu sẽ cản trở chức năng của các tế bào sinh sản.
Cẩn trọng khi dùng colchicine trị gút
Tôi 45 t.uổi, mới phát hiện bị gút. Đi khám bác sĩ kê dùng colchicine. Xin hỏi khi dùng thuốc này, cần chú ý gì?
Nguyễn Văn Toại (Hà Nam)
Ảnh minh họa
Trong điều trị gút, colchicine là thuốc được chọn dùng để làm giảm đau trong các đợt gút cấp và dùng để chẩn đoán viêm khớp do gút (vì nếu có đáp ứng với trị liệu bằng colchicin thì chứng tỏ là có tinh thể urat vì tinh thể này khó bị phát hiện, nhất là khi chỉ bị ở các khớp nhỏ).
Ngoài ra thuốc còn dược dùng phòng tái phát viêm khớp do gút và điều trị dài ngày bệnh gút. Vì vậy, đối với bệnh nhân gút thì colchicine là thuốc rất quen thuộc.
Colchicin là thuốc được dùng dưới chỉ định của bác sĩ chuyên khoa trên từng người bệnh cụ thể về liều lượng, cách dùng và thời gian dùng thuốc. Người bệnh không được mách bảo nhau mua thuốc về dùng để tránh những tai biến do thuốc gây nên như tác dụng phụ của thuốc, ngộ độc thuốc…
Nếu đã được bác sĩ kê đơn dùng, người bệnh cần tuân thủ liều lượng và thời gian dùng thuốc, tái khám đúng hẹn. Không được tự ý tăng liều, bởi khi dùng quá liều (đặc biệt là liều quá cao) rất dễ gây ngộ độc thuốc với biểu hiện tiêu chảy nặng, c.hảy m.áu dạ dày – ruột, nổi ban, tổn thương thận, thậm chí t.ử v.ong.
Trong quá trình dùng thuốc, nếu gặp các bất thường về tiêu hóa như: Buồn nôn, nôn, đau bụng, và tiêu chảy… cần ngừng dùng thuốc và báo cho bác sĩ biết, vì đây có thể là dấu hiệu sớm của ngộ độc thuốc.
Ngoài ra cũng cần lưu ý, do các thuốc điều trị bệnh khác như thuốc chống nấm (như fluconazol), thuốc chẹn kênh calci (như diltiazem, verapamil) và kháng sinh nhóm macrolid (như erythromycin)… có thể làm tăng nguy cơ ngộ độc colchicine nên người bệnh cần thông báo cho bác sĩ biết nếu mình đang dùng các thuốc này, để bác sĩ có thể cân nhắc kê đơn colchicine hoặc giảm liều, tránh nguy cơ ngộ độc thuốc cho người bệnh.