Sau tim mạch, đây là căn bệnh cướp đi nhiều sinh mạng người Việt nhất

Là nguyên nhân gây c.hết người xếp thứ 2 chỉ sau tim mạch, nhưng tại Việt Nam, việc chẩn đoán, phát hiện sớm bệnh này vẫn còn là bài toán khó.

Tăng liên tục số người mắc và t.ử v.ong vì ung thư

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tại Việt Nam, số ca mắc mới ung thư không ngừng tăng, từ 68.000 ca năm 2000 lên 126.000 năm 2010, trong đó có 94.000 người t.ử v.ong.

Số liệu mới nhất năm 2018 của Tổ chức Ghi nhận ung thư toàn cầu (GLOBOCAN) cho thấy, với dân số hơn 96 triệu người, Việt Nam trong năm qua có tới gần 165.000 ca ung thư mới mắc, nghĩa là mỗi ngày có hơn 450 người Việt phát hiện mắc ung thư; gần 115.000 người t.ử v.ong do ung thư và hơn 300.000 người đang sống chung với ung thư.

Ung thư là căn bệnh gây c.hết người xếp hàng thứ 2, chỉ sau tim mạch. Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), năm 2016 cả nước có gần 550.000 ca t.ử v.ong các loại trong đó 77% là t.ử v.ong là do bệnh không lây nhiễm, chủ yếu là các bệnh tim mạch (31%), ung thư (19%).

Trong 5 loại ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất ở Việt Nam, ở nam giới, ung thư gan chiếm tỷ lệ mắc và t.ử v.ong hàng đầu, tiếp theo là các ung thư phổi, dạ dày, đại trực tràng và vòm họng. Ở nữ giới, ung thư vú chiếm tỷ lệ mắc và t.ử v.ong hàng đầu (20,6%).

PGS.TS Bùi Diệu, nguyên Giám đốc Bệnh viện K cho biết, không chỉ số lượng người bệnh ung thư gia tăng mà chi phí điều trị các bệnh ung thư cũng liên tục gia tăng. Việc phát hiện sớm các trường hợp mắc ung thư giúp cho công tác điều trị đơn giản hơn và chi phí chỉ bằng 20% so với điều trị muộn.

Một nghiên cứu về ung thư cho thấy, năm 2012 riêng tổng chi phí trực tiếp cho điều trị 6 bệnh ung thư phổ biến ở Việt Nam (trong đó có 5 bệnh liên quan đến rượu bia) đã lên tới gần 26.000 tỷ đồng. Ung thư không chỉ gây nghèo hoá đối với nhiều gia đình, mà còn là gánh nặng đối với cộng đồng nói chung.

Tránh “án tử” từ dự phòng các yếu tố nguy cơ

Các chuyên gia về ung thư cho biết, những yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ung thư đó là: chế độ dinh dưỡng không hợp lý, hút t.huốc l.á, uống rượu bia, thừa cân béo phì và lười vận động. Ngoài ra còn các yếu tố nguy cơ khác như ô nhiễm môi trường, yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, nhiễm vi-rút HPV, vi-rút viêm gan, yếu tố gia đình…

Dù là một trong những thách thức sức khoẻ cộng đồng quan trọng nhất của thế kỷ 21, nhưng Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết, khoảng 40% trường hợp ung thư có thể được ngăn ngừa bằng cách: có chế độ dinh dưỡng hợp lý, không hút t.huốc l.á, hạn chế uống rượu bia, tăng cường vận động thể lực.

Đơn cử, với t.huốc l.á, đây là nguyên nhân của 30% các loại ung thư như ung thư phổi, thanh quản, thực quản, tụy… nhưng theo nghiên cứu của Bộ Y tế, gần một nửa nam giới hút t.huốc l.á. Đặc biệt, hút thuốc là nguyên nhân cuả 90% trường hợp ung thư phổi. Chưa kể 1,1% nữ giới cũng hút thuốc và hàng triệu người không hút thuốc nhưng thường xuyên hít phải khói thuốc.

Theo TS Trương Đình Bắc, Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), trước đây nhiều người dân chỉ hiểu rằng uống nhiều rượu, bia sẽ bị viêm gan, xơ gan dẫn đến ung thư gan. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Rượu bia còn là nguyên nhân trực tiếp gây ra khoảng 7 loại ung thư như: Khoang miệng, họng, thanh quản, thực quản, đại trực tràng, gan và ung thư vú ở phụ nữ. Trong khi đó, ở nước ta, 77% nam giới uống rượu, bia và gần một nửa (45%) uống ở mức nguy hại.

Ung thư: Phát hiện sớm, chữa khỏi cao

GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K nhấn mạnh ung thư là căn bệnh có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Phát hiện càng sớm thì việc điều trị càng đơn giản, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp.

Tại Việt Nam, số ca t.ử v.ong vì ung thư cao gấp 9 lần số người c.hết do tai nạn giao thông. Theo Bộ Y tế, tình trạng này là do đa phần người bệnh đi khám, phát hiện, điều trị muộn – ước tính có số này khoảng trên 70%, chỉ đến khi không chịu nổi mới đến bệnh viện để khám bệnh. Phát hiện muộn còn khiến việc điều trị ung thư phức tạp, tốn kém và hiệu quả thấp.

Ví dụ, ung thư phổi, ung thư gan có tới 80-90% số bệnh nhân đến khám, điều trị ở giai đoạn muộn. Còn điều tra của Bộ Y tế cho thấy, mới có 31% số phụ nữ 30-49 t.uổi được sàng lọc ung thư cổ tử cung.

Với ung thư vú, năm 2018 Việt Nam phát hiện 15.000 ca mắc ung thư mới, 6.000 ca t.ử v.ong. Có khoảng gần 43.000 người đang sống cùng căn bệnh này. GS.TS Trần Văn Thuấn, cho hay, với ung thư vú nếu phát hiện ở giai đoạn sớm, tỉ lệ chữa khỏi đến 95%.

Tuy nhiên tại Việt Nam, vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn. Tại cộng đồng, chỉ có 24,2% phụ nữ có thực hành tự khám vú hàng tháng trong số những người tham gia chiến dịch sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú.

Phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm là vô cùng quan trọng, là cơ hội may mắn cho bất cứ ai để chữa khỏi bệnh. Vì vậy người dân, nhất sau t.uổi 40, hoặc có yếu tố nguy cơ cao, t.iền sử gia đình có người mắc ung thư, cần khám sức khoẻ định kỳ, sàng lọc phát hiện sớm ung thư. Khi đã chẩn đoán mắc ung thư, cần tuân thủ điều trị theo phác đồ do bác sĩ đưa ra.

Box: Năm 2015, Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh ung ung thư, tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản và các bệnh không lây nhiễm khác giai đoạn 2015-2025.

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Sức khoẻ Việt Nam, đặt mục tiêu cụ thể nâng tỷ lệ người thuộc đối tượng nguy cơ được khám phát hiện sớm ung thư (Ung thư vú, ung thư cổ tử cung và ung thư đại trực tràng) sẽ tăng từ 40% lên 50% trong 5 năm 2025-2030.

Tú Anh

Theo Dân trí

Chế độ ăn lành mạnh dựa trên thực phẩm lành mạnh

Duy trì được một chế độ ăn lành mạnh trong suốt cuộc đời sẽ giúp phòng tránh được duy dinh dưỡng ở tất cả các thể, bao gồm cả thừa cân, béo phì và các bệnh không lây nhiễm.

Chế độ ăn lành mạnh:

Rau quả: Ăn ít nhất 400g rau quả hàng ngày để giảm nguy cơ mắc các bệnh chuyển hóa và tăng mức tiêu thụ chất xơ.

Chất béo: Giảm lượng chất béo xuống dưới 30% tổng năng lượng khẩu phần để kiểm soát cân nặng và giảm nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm, bằng cách: Nên hấp hoặc luộc thức ăn thay vì chiên xào; Thay mỡ, bơ bằng các loại dầu thực vật chưa bão hòa như dầu đậu nành, dầu ngô, dầu hạt cải, dầu hướng dương; sử dụng các loại sữa hoặc chế phẩm sữa tách bơ, thịt nạc, hoặc loại bỏ các phần mỡ thừa khỏi thịt, giảm việc tiêu thụ các thức ăn nướng hoặc chiên, các thực phẩm đóng gói sẵn chứa nhiều chất béo chuyển hóa công nghiệp.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Muối, natri và kali: Chúng ta thường tiêu thụ quá nhiều natri thông qua muối và lại ít kali. Trong khi ăn nhiều natri và ít kali góp phần gây tăng huyết áp và làm tăng nguy cơ bệnh tim và đột quỵ. Giảm mức tiêu thụ muối xuống dưới 5g một ngày bằng cách hạn chế sử dụng muối và các gia vị có chứa nhiều muối khi nấu nướng và chuẩn bị thực phẩm.

Đường: Hạn chế sử dụng các loại thức ăn nước uống có hàm lượng đường cao như đồ ăn vặt, kẹo, nước ngọt (có ga hoặc không có ga), nước quả, các dịch cô đặc hoặc bột pha nước uống, nước uống có hương vị, trà uống liền, sữa có đường…

Thực phẩm lành mạnh: những thực phẩm có ít chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa, đường tự do và muối. Không có thực phẩm nào được coi là hoàn toàn lành mạnh, cũng không có thực phẩm nào là hoàn toàn xấu, không lành mạnh.

Với các thực phẩm tự nhiên, cần kết hợp chúng một cách đa dạng, đảm bảo đầy đủ về số lượng và cân đối các chất dinh dưỡng, lựa chọn thực phẩm mùa nào thức nấy. Với các thực phẩm được qua chế biến, trong quá trình chế biến người sản xuất phải hạn chế sử dụng hoặc làm gia tăng các thành phần tạo nên thực phẩm “không lành mạnh” thông qua việc kiểm soát các thành phần “xấu” như muối, đường đơn, chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa. Nên hạn chế ăn đồ ăn liền, đồ chiên rán, đồ hộp, vì ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe.

Với trẻ nhỏ, các lời khuyên dinh dưỡng cũng tương tự như người lớn nhưng cần lưu ý: Trong 2 năm đầu đời của trẻ, dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp phát triển tăng trưởng tối ưu về cả thế chất và trí tuệ. Đồng thời, dinh dưỡng tốt cũng giúp trẻ giảm nguy cơ thừa cân béo phì và bệnh không lây nhiễm khi trẻ lớn lên.

Trẻ nhỏ cần được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và bú mẹ kéo dài đến 24 tháng hoặc lâu hơn. Khi trẻ tròn 6 tháng t.uổi, cùng với sữa mẹ, trẻ cần được ăn bổ sung với các thực phẩm đa dạng, đủ về số lượng, an toàn và giàu dinh dưỡng. Không nên thêm đường và muối vào thức ăn bổ sung của trẻ.

Theo kinhtedothi

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *