Đột phá trong nghiên cứu phát hiện sớm ung thư ruột

Các nhà nghiên cứu Australia đã đạt được bước đột phá mới khi tìm ra cách phát hiện ung thư ruột mà không cần xét nghiệm phân.

Hiện nay, ung thư ruột chỉ có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm m.áu ẩn trong phân (FOBT), nhằm tìm kiếm dấu vết m.áu không nhìn thấy bằng mắt thường trong mẫu phân. Trong nghiên cứu mới được công bố ngày 24/1, một nhóm nhà khoa học từ Viện Nghiên cứu Y tế và Sức khỏe Nam Australia, Đại học Adelaide và các đối tác tại Đại học Columbia ở Mỹ đã phát hiện ra cách điều chỉnh một loại vi khuẩn sinh học để giúp phát hiện sớm các khối u ung thư ruột. Loại vi khuẩn sinh học Escherichia coli Nissle, được bác sĩ người Đức Alfred Nissle phát hiện lần đầu tiên trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã được sử dụng để điều trị rối loạn đường ruột.

Nhóm nghiên cứu do các nhà khoa học Australia dẫn đầu đã phát hiện ra rằng khi vi khuẩn sinh học Escherichia coli Nissle hiện diện trong ruột, chúng thích sống trong các tổn thương vốn là t.iền thân của ung thư ruột và các khối u ung thư ruột. Vì vậy, nhóm đã điều chỉnh vi khuẩn để chúng có thể giải phóng các phân tử làm dấu hiệu nhận biết các bệnh ung thư giai đoạn đầu.

Susan Woods, tác giả nghiên cứu chính, cho biết đột phá này có thể giúp chẩn đoán ung thư ruột sớm hơn và mà không cần biện pháp xâm lấn. Khi xác định được vị trí khối u, vi khuẩn sẽ tiết ra chất làm dấu hiệu nhận biết và chất này có thể được phát hiện trong nước tiểu. Trong tương lai, nhóm nghiên cứu hướng tới việc có thể phát hiện dấu hiệu này trong xét nghiệm m.áu.

Theo Hội đồng Ung thư Australia, ung thư ruột là loại bệnh ung thư phổ biến thứ 4 ở nước này, với ước tính 15.300 ca chẩn đoán vào năm 2023. Độ t.uổi trung bình bị chẩn đoán mắc bệnh là là 69 t.uổi. Australia có Chương trình sàng lọc ung thư ruột quốc gia, theo đó phát miễn phí cho mỗi người dân ở độ t.uổi 50 – 74 dụng cụ FOBT để thực hiện tại nhà 2 năm một lần.

Chất trong vải chống thấm, chất tẩy… thúc đẩy di căn ung thư?

Nghiên cứu mới từ Đại học Yale (Mỹ) cảnh báo ‘hóa chất vĩnh viễn’ PFAS có khả năng đẩy nhanh quá trình phát triển của bệnh ung thư.

Theo Science Alert, trong bước đầu tiên của nghiên cứu, các nhà khoa học đã dùng tế bào ung thư ruột (ung thư đại trực tràng) để thử nghiệm, cho chúng tiếp xúc với 2 loại PFAS.

Kết quả cho thấy các tế bào ung thư này dường như được kích thích để di chuyển sang vị trí mới, điều mà nếu xảy ra bên trong cơ thể sống sẽ tạo ra sự di căn của bệnh ung thư.

Tế bào ung thư – Ảnh: ĐẠI HỌC YALE

“Điều đó không chứng minh được cụ thể là di căn, nhưng chúng có khả năng vận động tăng lên, đó là một đặc điểm của di căn” – nhà dịch tễ học Caroline H. Johnson từ Đại học Yale giải thích.

Những gì xảy ra trên các đĩa thí nghiệm rất đáng lưu tâm. Khi tiếp xúc với 2 loại PFAS là PFOS và PFOA, các tế bào ung thư cho thấy sự chuyển động và gia tăng xu hướng lan rộng.

Khi các nhà nghiên cứu cố tách đôi mớ tế bào trên đĩa, chúng lại tiếp tục phát triển và di chuyển về phía nhau.

Họ cũng xem xét mô hình một số nhóm người dễ bị phơi nhiễm với các hóa chất này, trong đó có nhiều người mắc bệnh, và xác nhận mức tăng nguy cơ ung thư ruột tỉ lệ thuận với mức độ phơi nhiễm.

PFAS là các hóa chất được con người tạo ra khoảng thập niên 1940, dựa trên liên kết carbon-flo. Các liên kết này rất bền, chống p.hân h.ủy, nên nó được gọi là “hóa chất vĩnh viễn” và ứng dụng trong nhiều tác phẩm.

Tuy nhiên, theo thời gian, người ta ngày càng nhận ra hóa chất vĩnh viễn có nhiều tác động xấu đến sức khỏe con người.

PFAS đã phổ biến khắp nơi, bao gồm trong nhiều loại bao bì thực phẩm nhằm chống dầu mỡ, quần áo chống thấm, chảo chống dính, sơn vecni, chất tẩy rửa và thậm chí cả trong một số loại mỹ phẩm, theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA).

Do bị con người tận dụng quá nhiều nên nhiều nguồn nước, vùng đất cũng bị ô nhiễm nhóm hóa chất này – điều mà các cơ quan môi trường khắp thế giới đang cố gắng giải quyết.

“Việc hiểu rõ cơ chế về cách chúng thực sự có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của tế bào ung thư là điều quan trọng” – TS Johnson nhìn nhận. Ông và các cộng sự dự định sẽ tiến tới các thử nghiệm chi tiết hơn, bao gồm thử nghiệm lâm sàng để làm rõ vấn đề.

Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Environmental Science & Technology.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *