Việt Nam có tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư cao vì phát hiện muộn

Với khoảng 120.000 người t.ử v.ong mỗi năm, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư cao trong khu vực và thế giới.

Tiến sỹ-bác sỹ Nguyễn Anh Khôi, Trưởng Khoa Ngoại Đầu cổ-Hàm mặt, Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh khám cho bệnh nhân ung thư sau khi tái tạo lưỡi. (Ảnh: TTXVN phát)

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi bệnh ung thư khi số lượng ca mắc mới, số ca t.ử v.ong ngày càng tăng.

Hàng năm có khoảng 120.000 người Việt Nam t.ử v.ong do ung thư, thuộc nhóm các quốc gia có tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư cao của khu vực và thế giới.

Thông tin trên được chia sẻ tại Hội nghị khoa học kỹ thuật năm 2024 do Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức ngày 10/5.

Tại hội nghị, Tiến sỹ-bác sỹ Diệp Bảo Tuấn, Phó Giám đốc điều hành Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết bệnh lý ung thư đã và đang là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Theo thống kê của Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN) năm 2022, tại Việt Nam mỗi năm có khoảng 180.400 ca mắc ung thư mới và hơn 120.000 ca t.ử v.ong do ung thư. Con số thống kê này cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi gánh nặng ung thư.

Là bệnh viện tuyến cuối khu vực phía Nam chuyên về điều trị ung thư, mỗi năm, Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh điều trị cho hàng trăm nghìn lượt người bệnh. Chỉ riêng năm 2023, Bệnh viện Ung bướu Thành phố tiếp nhận gần 800.000 lượt khám, thực hiện gần 37.000 ca phẫu thuật, hơn 180.000 lượt xạ trị và gần 300.000 lượt điều trị nội khoa bằng hóa trị, liệu pháp nhắm trúng đích và liệu pháp miễn dịch. Đáng chú ý, số lượng bệnh nhân đang mỗi ngày một gia tăng.

Các bác sỹ thực hiện kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang cho một bệnh nhân. (Ảnh: PV/Vietnam )

Lý giải về tỷ lệ t.ử v.ong do ung thư cao, bác sỹ Diệp Bảo Tuấn cho rằng nguyên nhân là do người bệnh phát hiện bệnh và điều trị khi đã ở giai đoạn muộn. Thống kê của Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, có khoảng 50-80% bệnh nhân đến khám khi đã ung thư ở giai đoạn 3 và giai đoạn 4, khiến cho kết quả điều trị không như mong đợi.

Do đó, bác sỹ Tuấn khuyến cáo người dân nên thực hiện các chương trình tầm soát ung thư để phát hiện bệnh khi mới ở giai đoạn sớm.

“Các chương trình tầm soát ung thư hiệu quả sẽ giúp phát hiện sớm bệnh, kéo giảm tỷ lệ t.ử v.ong, nâng cao chất lượng điều trị và giảm chi phí cho người bệnh. Đây cũng là một trong những giải pháp trong chiến lược phòng, chống ung thư của Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới,” Tiến sỹ-bác sỹ Diệp Bảo Tuấn phân tích.

Đến từ Trung tâm ung thư Quốc gia Singapore, Giáo sư Michael Wang đã trình bày báo cáo về sự cần thiết của một trung tâm trị liệu proton quốc gia. Theo ông Michael Wang, liệu pháp proton là liệu pháp điều trị ung thư tiên tiến có khả năng giảm thiểu những tác dụng phụ thường thấy trong xạ trị truyền thống. Các nước và khu vực phát triển như Mỹ, châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… đã xây dựng nhiều trung tâm trị liệu proton.

Phó Giáo sư Michael Wang đ.ánh giá, hệ thống thiết bị máy móc cũng như trình độ của đội ngũ nhân lực điều trị ung thư của Việt Nam đã ngang tầm với các nước hàng đầu trong khu vực và thế giới. Vì vậy, Việt Nam đủ khả năng để phát triển, ứng dụng các công nghệ hiện đại như xạ trị proton để mang lại hiệu quả cao hơn trong điều trị ung thư. “Việc đầu tư hệ thống xạ trị proton không chỉ khắc phục được những điểm yếu của xạ trị truyền thống mà còn giảm thiểu người bệnh trong nước ra nước ngoài điều trị, có thể thu hút bệnh nhân từ các nước trong khu vực đến Việt Nam điều trị,” Phó Giáo sư Michael Wang nhìn nhận.

Hội nghị Khoa học kỹ thuật Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2024 thu hút hàng nghìn chuyên gia đầu ngành và nhân viên y tế trong lĩnh vực ung thư trong nước và quốc tế.

Các báo cáo trình bày tại hội nghị là những bước tiến mới trong chẩn đoán và điều trị ung thư như xạ trị proton, liệu pháp miễn dịch, sinh học phân tử và điều trị nhắm trúng đích, phẫu thuật robot trong ung thư, phẫu thuật tạo hình, kỹ thuật sinh thiết điều trị u vú bằng hút chân không VABB…../.

Phụ nữ nên biết 7 nguyên nhân gây ung thư buồng trứng

Ung thư buồng trứng là một trong những căn bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới, sau ung thư vú và ung thư cổ tử cung.

Biết các yếu tố nguy cơ có thể giúp phụ nữ phát hiện các triệu chứng ung thư buồng trứng dễ bị bỏ qua.

Theo Bệnh viện K Trung ương, ung thư buồng trứng là ung thư đường s.inh d.ục thường gặp ở nữ giới, đứng thứ hai sau ung thư cổ tử cung. Ước tính trên toàn thế giới, mỗi năm có khoảng 240.000 phụ nữ được chẩn đoán có khối u ác tính tại buồng trứng, gần 150.000 ca t.ử v.ong. Vì vậy, ung thư buồng trứng là một trong những ung thư nguy hiểm.

1. Tại sao ung thư buồng trứng lại nguy hiểm?

Hình ảnh ung thư buồng trứng.

Vấn đề là phụ nữ thường không nhận biết được các triệu chứng ung thư buồng trứng cho đến khi bệnh tiến triển và ung thư càng phát hiện muộn thì càng khó điều trị. Nếu và khi phụ nữ gặp các triệu chứng, những triệu chứng đó thường nhẹ và bao gồm đầy hơi, sưng hoặc chướng bụng và đi tiểu thường xuyên. Những triệu chứng này sẽ khiến nghĩ đến do tăng cân, hội chứng t.iền k.inh n.guyệt, căng thẳng, đau dạ dày, n.hiễm t.rùng đường tiết niệu hoặc hội chứng ruột kích thích… BS. Nguyễn Tuấn Anh, Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết: “Vì vậy, thông thường khi chẩn đoán, khoảng 2/3 số bệnh nhân ung thư buồng trứng đã lan ra ngoài vùng xương chậu”.

Hầu hết vẫn chưa hiểu đầy đủ chính xác nguyên nhân gây ung thư buồng trứng, điều quan trọng là phải biết các yếu tố nguy cơ ung thư buồng trứng phổ biến nhất. Hãy hết sức chú ý trong việc lắng nghe cơ thể mình và nên đi khám ngay lập tức khi thấy những nguy cơ sau:

1.1 Có đột biến gene di truyền

Có một số đột biến gene mà phụ nữ có thể thừa hưởng từ cha mẹ khi sinh làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng, chẳng hạn như hội chứng BRCA1, BRCA2 và Lynch. Ví dụ, khoảng 1% phụ nữ trong dân số nói chung sẽ mắc ung thư buồng trứng trong đời. Ngược lại, phụ nữ có đột biến BRCA1 có 44% nguy cơ, tỷ lệ những người có đột biến BRCA2 là 17% và phụ nữ mắc hội chứng Lynch có 6 đến 8%. Những đột biến này cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư khác.

Ví dụ, BRCA1 cũng có liên quan đến ung thư vú; BRCA2 cũng liên quan đến khối u ác tính (ung thư da) cũng như ung thư vú, tuyến tụy và tuyến t.iền liệt; và Hội chứng Lynch cũng liên quan đến ung thư ruột kết và nội mạc tử cung.

Nếu bất kỳ bệnh ung thư nào di truyền trong gia đình, đặc biệt là nếu người thân thế hệ thứ nhất mắc bệnh này (cha mẹ, anh chị em hoặc con cái) được chẩn đoán ở độ t.uổi trẻ, hãy hỏi bác sĩ về việc gặp chuyên gia tư vấn di truyền, người có thể giúp tìm hiểu xem liệu xét nghiệm di truyền có phù hợp hay không.

Xét nghiệm di truyền có những ưu và nhược điểm, nhưng một lợi ích chính là nếu phát hiện ra mình có đột biến gene, đặc biệt là ở t.uổi trưởng thành trẻ, sẽ có cơ hội thực hiện các biện pháp chủ động giúp giảm nguy cơ phát triển ung thư trong tương lai.

1.2 T.iền sử gia đình mắc bệnh ung thư buồng trứng

Ngay cả khi không có đột biến gene di truyền, nếu có từ hai người thân trở lên mắc bệnh ung thư buồng trứng thì sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

1.3 T.uổi tác

T.uổi tác là một trong những yếu tố nguy cơ phổ biến nhất đối với nhiều bệnh ung thư và một nửa số ca ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở phụ nữ từ 63 t.uổi trở lên. Nghĩa là, có thể sống càng lâu thì tế bào càng phân chia nhiều và khả năng mắc bệnh hoặc đột biến gene càng lớn. Và những thứ này có thể tích lũy dần dần. TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng, Bệnh viện K Trung ương, cho biết: “Khi còn trẻ, cơ thể có nhiều khả năng sửa chữa, khắc phục những sai lầm hoặc đột biến đó”.

1.4 Thừa cân

Phụ nữ thừa cân dễ mắc ung thư buồng trứng.

Lời giải thích cho yếu tố nguy cơ này là do hormone. Tác dụng của mô mỡ là nó tạo ra estrogen, việc sản xuất quá nhiều estrogen, đặc biệt ở phụ nữ lớn t.uổi sau t.uổi mãn kinh, khiến họ có nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng và ung thư tử cung. Thêm vào đó, mô mỡ còn tạo ra một số phân tử có tác dụng phá hủy DNA và gene. Chúng được gọi là tác nhân oxy hóa. Đây là một yếu tố rủi ro nằm trong tầm kiểm soát vì tất nhiên có thể duy trì cân nặng khỏe mạnh thông qua việc ăn nhiều thực phẩm bổ dưỡng hơn và tập thể dục thường xuyên.

1.5 Dùng liệu pháp thay thế hormone estrogen

Sử dụng loại liệu pháp này sau khi mãn kinh có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, nguy cơ cao nhất đối với những người chỉ dùng estrogen (không có progesterone) trong ít nhất 5 hoặc 10 năm.

1.6 Rụng trứng nhiều

Phụ nữ càng rụng trứng nhiều thì nguy cơ mắc ung thư buồng trứng càng cao. Theo BS. Nguyễn Tuấn Anh, trong quá trình rụng trứng, biểu mô hoặc da, nang buồng trứng vỡ ra và giải phóng một quả trứng, sau đó vết vỡ sẽ tự lành lại giống như một vết rách. Quá trình chữa lành đó khiến các tế bào phải phân chia và tái tạo. Và tế bào buồng trứng càng phân chia nhiều thì càng có nhiều khả năng gặp phải các đột biến gene có thể tích tụ theo thời gian và gây ra ung thư buồng trứng. Mang thai, cho con bú và uống thuốc tránh thai đều ngăn ngừa sự rụng trứng, vì vậy chúng đều giúp buồng trứng được nghỉ ngơi.

1.7 Bị lạc nội mạc tử cung

Có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng lên một chút nếu phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung, tình trạng nội mạc tử cung (mô) phát triển bên ngoài tử cung thay vì lót bên trong tử cung và có xu hướng gây ra đau bụng kinh.

2. Các yếu tố phòng ngừa và bảo vệ trước nguy cơ ung thư buồng trứng

Thuốc tránh thai có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư buồng trứng.

Hiện tại không có phương pháp nào để ngăn ngừa ung thư buồng trứng ngoài việc xác định và tránh bất kỳ yếu tố nguy cơ nào có thể thay đổi được.

Không phải lúc nào cũng có thể tránh được các yếu tố nguy cơ gây ung thư buồng trứng, chẳng hạn như t.iền sử gia đình. Nhưng nhận thức được những yếu tố này có thể giúp cảnh giác hơn về các triệu chứng để đi khám và phát hiện ung thư buồng trứng sớm hơn.

Vì béo phì là một yếu tố nguy cơ nên duy trì cân nặng vừa phải có thể là một cách để giảm nguy cơ. Có một chế độ ăn uống cân bằng, lành mạnh và tập thể dục thường xuyên là một phương pháp tốt để duy trì cân nặng vừa phải.

Yếu tố bảo vệ là bất cứ thứ gì làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng. Các yếu tố bảo vệ ung thư buồng trứng bao gồm:

Thuốc tránh thai đường uống: Dùng thuốc tránh thai đường uống có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn và nguy cơ này càng giảm khi người dùng thuốc này lâu hơn. Tuy nhiên, thuốc tránh thai có thể gây ra những nguy cơ sức khỏe khác, chẳng hạn như nguy cơ đông m.áu, đặc biệt ở những người hút thuốc.

Sinh con: Những người sinh con có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn so với những người không sinh con. Sinh con nhiều lần có nguy cơ thấp hơn so với sinh một lần.

Cho con bú: Những người cho con bú giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng, nguy cơ này tiếp tục giảm khi thời gian tiết sữa kéo dài hơn.

Thắt ống dẫn trứng hoặc cắt bỏ ống dẫn trứng: Đây là những thủ tục phẫu thuật để đóng hoặc cắt bỏ một hoặc cả hai ống dẫn trứng. Thực hiện một trong hai phẫu thuật có liên quan đến nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn.

Một số phụ nữ có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư buồng trứng có thể chọn phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng để giảm nguy cơ. Đây là một thủ thuật nhằm cắt bỏ ống dẫn trứng và buồng trứng.

Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ báo cáo rằng phụ nữ sau mãn kinh có đột biến gene BRCA có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng tới 85 – 90% và ung thư vú tới 50% bằng phương pháp cắt bỏ buồng trứng để giảm nguy cơ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *